(QBĐT) - Tháng giêng dần khép, để lại những dư âm của ngày Tết trong từng nếp nhà. Những hương sắc của mai vàng, đào thắm cũng phai dần. Tháng hai âm lịch về, mang theo những chuyển biến tinh tế của đất trời. Đây là khoảng thời gian tạo hóa chuyển mình. Mùa xuân đã phải vất vả nhặt nhạnh những lạnh giá còn sót lại, để nhường chỗ cho những đợt nắng ấm áp hơn.
Ngày xưa, cứ mỗi lần tháng hai về, bà tôi lại dắt anh em chúng tôi ra vườn. Vườn nhà tôi tuy không rộng, nhưng cũng đủ thứ cây trái truyền thống. Bà vừa đi vừa đọc câu tục ngữ “Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc…”. Chúng tôi nhõng nhẽo nắm tay bà hỏi cho được thế nào là rét đài, rét lộc?
Bà bỏm bẻm nhai trầu giải thích, tháng giêng là thời điểm mà thời tiết còn đón những đợt gió mùa đông bắc mạnh, rét đậm làm hoa rụng cánh chỉ còn trơ lại đài hoa nên gọi là rét đài. Tháng hai thời tiết lạnh ẩm, có mưa phùn, cây cỏ đâm chồi nảy lộc nhiều, nên gọi là rét lộc. Bà chỉ vào cây mưng (lộc vừng) già nằm ở góc vườn lú nhú lộc tím, những cây bưởi lộc non tơ hấp hé chùm hoa trắng muốt, thơm dìu dịu, quyện vào không khí một mùi hương thanh khiết và cả những chùm hoa xoan lốm đốm tím ngạt ngào bên hàng rào.
|
Bà ngẩng lên nhìn trời ao ước, mong cho mưa thuận gió hòa. Bà nhìn ra dòng sông Gianh êm ả trôi, rồi ngâm nga câu ca dao theo điệu hò phường nón của làng Thổ Ngọa: “Tháng giêng là tiết mưa xuân/Tháng hai mưa nụ ái ân ngọt ngào/Anh đừng cờ bạc lãng sao/Về mà trỉa đậu trồng cà với em”. Chúng tôi chẳng hiểu ý tứ gì trong làn điệu của bà nên chỉ im lặng. Mãi sau này mới hiểu, bốn câu ca dao được mượn ý của các câu ca dao khác, nói về lịch nông vụ và những thói tục cũ của tháng hai âm lịch ngày xưa. Là tâm tư của phận “má đào” bởi các “đấng mày râu” còn ham chơi mà bỏ bê nông vụ: “Tháng chạp là tháng trồng khoai, tháng giêng trỉa đậu, tháng hai trồng cà”. Ấy vậy mà đâu đó vẫn còn: “Tháng giêng là tháng ăn chơi, tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè…”.
Lớn lên một chút, lứa học trò chúng tôi lại có những bâng khuâng khác về tháng hai. Đó là những buổi chiều nghỉ học, chúng tôi dắt tay nhau đi trên bờ bãi sông Gianh, chiêm ngưỡng những dấu vết của ngày đầu xuân chưa kịp phai. Tháng hai trời cao trong vắt, những vệt mây trắng mỏng tang trôi lững lờ trên nền xanh nhạt. Gió từ biển thổi ngược lên, mang theo chút se lạnh, hòa cùng hơi ấm của nắng xuân đang dần rõ nét hơn trên từng con sóng. Dòng Gianh xanh ngắt, lặng lẽ chở theo những con thuyền nhỏ, nơi ngư dân trở về sau những chuyến đi biển đầu năm, mang theo mẻ cá trích đầu mùa ánh bạc dưới nắng.
Dọc theo những triền sông, bờ bãi xanh rờn màu lá non. Trên các lối nhỏ, hàng duối già đâm chồi, sắc lá nõn nà trong gió. Những rặng dứa dại trổ hoa lấm tấm, tỏa hương ngai ngái theo từng cơn gió nồm. Thỉnh thoảng có mấy bụi sim, mua bắt đầu ra lộc, hứa hẹn một mùa hoa tím biếc cho hè. Tiếng chim chèo bẻo, sáo sậu ríu rít trên những tán tre già, hòa cùng nhịp sống cần mẫn của người dân. Tháng hai, sông Gianh vẫn mang nét xuân dịu dàng, nền nã, như chính tâm hồn người dân nơi đây, lặng lẽ, bền bỉ mà tràn đầy sức sống.
Bắt cua bắt cáy chán chê, chúng tôi lại trèo lên những cây bần cao mọc dính nhau ven sông. Cuối tháng hai bần bắt đầu nở hoa, những bông hoa cánh kim tím trắng. Con trai hái hoa cài lên tóc con gái, tình yêu cũng nảy nở từ đây. Bây giờ tóc mây bay, tháng hai trở về bên sông Gianh, bần không còn nữa. Bến sông Gianh đã hết hoang sơ, thay vào đó là nhà cao tầng nối tiếp. Bạn tôi lại man mác điệu hò: “Tháng hai tím trắng hoa bần/Thương nhau ta chớ ngại ngần hèn sang”.
Tháng hai còn là hình bóng bà, mẹ, cha hiện lên giữa những ngày xuân. Bà ngồi trước thềm nhà, miệng nhai trầu thong thả, đôi tay thuần thục làm bánh cho ngày Tết Hàn thực. Mẹ lom khom tần tảo bên những luống rau, hát vài câu ca dao cũ: “Tháng hai trồng đậu cho leo/Trồng ớt bên giếng trái theo về nhà”. Cha dẫn con ra đồng, cầm tay chỉ dạy cách làm cỏ, bỏ phân.
Tháng hai, cánh đồng lúa chiêm thời con gái của ngày xưa xanh mướt, những dải lúa non nghiêng nghiêng theo ngọn gió hôn nhẹ mơ màng. Bỗng một ngày thấy tháng hai lúa trổ. Cha đi thăm đồng về bỏ cuốc thở dài. Mẹ chậc lưỡi ngước nhìn trời lo lắng. Bà ôm cháu ru hời não nề: “Đói thì ăn ráy ăn khoai/Chớ chộ ló lổ (lúa trổ) tháng hai mà mừng”. Chao ôi, cái thời nông nghiệp bấp bênh, ai cũng sợ lúa trổ vào tháng hai, là thời kỳ hoạt động mạnh của các đợt gió mùa đông bắc khiến lúa sẽ “ngậm đòng, đứng bông” mất mùa, nên thà ăn củ ráy, củ khoai ngứa còn hơn thấy lúa trổ.
Tháng hai, ngẫm về ngày xưa để mừng cho hôm nay, nhưng cũng để lo lắng cho ngày mai. Dòng sông, cánh đồng, gò bãi, nhiều nơi đã bị san lấp, phố xá, hàng quán chen chúc. Nước vào ruộng đã không còn màu trong veo, vạt đất hôm qua có thể đã hóa con đường bê tông lạnh lùng. Câu ca dao đôi khi chỉ còn trong mộng.
Tháng hai vẫn thế, vẫn là những cơn mưa bụi lấm tấm bay ngang mái hiên, vẫn là màu xanh non tơ cây cỏ, vẫn là phiên chợ quê rộn ràng. Nhưng con người đã khác, không còn thong dong nhẩn nha chuyện trò bên hiên chợ, không còn những câu ca dao cất lên giữa đồng trưa nắng nhẹ. Nhịp sống hối hả cuốn mọi thứ vào vòng xoáy của thời gian. Ngày xưa, người ta mong mưa thuận gió hòa để mùa màng bội thu. Còn nay, người ta lo toan giữa bộn bề phú quý, giữa những guồng quay chẳng ngừng nghỉ. Tháng hai vẫn vậy, nhưng cuộc người đã khác.
Đỗ Thành Đồng
Nguồn: https://www.baoquangbinh.vn/van-hoa/202503/bang-khuang-thang-hai-2224985/
Bình luận (0)