Doanh nghiệp Go Global bằng chữ “tâm” và “tín”
Chia sẻ về điểm mạnh đặc trưng của công nghệ Việt khi bước ra thị trường toàn cầu, theo ông Nguyễn Văn Khoa, Tổng Giám đốc Tập đoàn FPT đó chính là con người. “Bản lĩnh của người Việt Nam ở nước ngoài là “không bao giờ bỏ cuộc giữa chừng”. Người Việt Nam luôn tìm mọi cách đồng hành, sát cánh với khách hàng vượt qua khó khăn. Chính vì thế, khi đã hợp tác, khách hàng thường gắn bó lâu dài, xem nhau như “người cùng một nhà”, ông Khoa chia sẻ.
Ông Khoa cũng cho biết, người Việt rất khiêm tốn, làm được 10 phần cũng chỉ nhận 6-7 phần. Chính sự khiêm tốn này giúp kết quả công việc thường vượt kỳ vọng của khách hàng.
Một điểm quan trọng mà ông Khoa cho rằng, người Việt Nam luôn dành được sự tin tưởng của đối tác, đó là khi các dự án có những phát sinh, chậm trễ hoặc yêu cầu ngoài hợp đồng. Người Việt Nam thường hỗ trợ hết mức, không quay lại ép khách hàng trả thêm chi phí. Trong trường hợp phát sinh quá nhiều nguồn lực, các doanh nghiệp Việt Nam và khách hàng sẽ cùng ngồi lại để đàm phán hướng giải quyết hài hòa, có lợi nhất cho cả đôi bên.
“Khi bước ra thế giới, mỗi doanh nghiệp không chỉ mang tên mình, mà còn mang hình ảnh Việt Nam. Nếu làm không tử tế, khách hàng, đối tác sẽ nghĩ doanh nghiệp Việt Nam thiếu uy tín và như vậy thì không ai hợp tác. Vì thế, chữ tín là điều quan trọng nhất và ảnh hưởng trực tiếp đến hình ảnh thương hiệu quốc gia. 37 năm qua, FPT luôn đặt chữ tín lên hàng đầu. Có những hợp đồng chúng tôi chấp nhận thua lỗ, nhưng không bao giờ để mất uy tín với khách hàng và đối tác. Đó là nguyên tắc sống còn khi doanh nghiệp Việt bước ra quốc tế. Và tôi tin rằng, nếu tất cả doanh nghiệp Việt cùng giữ gìn chữ tín, cùng nỗ lực thì vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế sẽ ngày càng được củng cố”, ông Khoa nhấn mạnh.

Từ trải nghiệm của FPT, ông Khoa cho hay bản thân thấy rất rõ giá trị mà ngoại giao công nghệ mang lại. Một ví dụ điển hình là Airbus. FPT bắt đầu bén duyên với Airbus tại Diễn đàn Kinh tế thế giới năm 2017, nơi quy tụ các nhà lãnh đạo chính phủ, doanh nghiệp, học giả và tổ chức quốc tế hàng đầu để thảo luận và định hình các xu hướng phát triển toàn cầu.
Từ một cuộc gặp gỡ, FPT dần trở thành đối tác chiến lược toàn cầu của Airbus. Tháng 5 vừa rồi, tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt-Pháp ở Paris, dưới sự chứng kiến của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, FPT và Airbus đã ký Thỏa thuận dịch vụ chính kéo dài nhiều năm.
Thỏa thuận này giúp FPT tiếp tục tham gia sâu hơn vào các dự án công nghệ thông tin toàn cầu của Airbus trong các lĩnh vực then chốt như dịch vụ khách hàng, dữ liệu lớn và phát triển phần mềm trên điện toán đám.
"Với FPT, khát vọng toàn cầu luôn gắn liền với gốc rễ Việt Nam. Chúng tôi đã triển khai nhiều sáng kiến để đưa công nghệ “Make in Vietnam” ra thế giới. Một trong những sản phẩm “Make in Vietnam” tiêu biểu là FPT.AI – nền tảng trí tuệ nhân tạo do chính kỹ sư Việt Nam phát triển đang phục vụ hàng chục triệu người dùng tại 15 quốc gia, với hàng trăm triệu lượt tương tác mỗi tháng", ông Khoa tự hào nói.
Với 1 Tập đoàn công nghệ kinh doanh toàn cầu như Viettel, 15 năm qua, ở bất cứ thị trường nào Viettel hiện diện, Viettel đều cố gắng xây dựng niềm tin bằng sự chân thành, lấy lợi ích của người dân sở tại làm trung tâm. Đó là lý do nhiều lãnh đạo quốc gia, như Tổng thống Timor-Leste hay Bộ trưởng Truyền thông Burundi, đã khẳng định sự hiện diện của Viettel mang lại thay đổi tích cực và coi Viettel là đối tác chiến lược về công nghệ số.
Theo đại diện Viettel, những đánh giá ấy không chỉ là sự ghi nhận cho riêng Viettel, mà còn là minh chứng cho năng lực và uy tín của doanh nghiệp Việt Nam trên bản đồ công nghệ toàn cầu.

“Có thể nói, mỗi sản phẩm công nghệ Viettel triển khai ở nước ngoài đều mang theo hình ảnh về một Việt Nam năng động, sáng tạo và thân thiện. Đó là cách chúng tôi góp phần định hình một diện mạo mới cho bản đồ viễn thông thế giới, đồng thời khẳng định vai trò của Viettel trong sứ mệnh mở khóa ngoại giao công nghệ bằng trái tim chân thành”, đại diện Viettel bày tỏ và nhấn mạnh thêm: “Điều giúp Viettel được đón nhận ở nước ngoài không chỉ là công nghệ, mà còn là con người. Chúng tôi luôn đến với tinh thần cầu thị, sẵn sàng lắng nghe và đồng hành thật sự với khách hàng. Chính điều đó tạo nên sự khác biệt của giải pháp Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế”.
Bước vào giai đoạn mới, Viettel tìm không gian tăng trưởng mới từ công nghệ cao. “Viettel phải tiên phong gắn sản phẩm công nghệ cao với thương hiệu quốc gia”, Thiếu tướng Nguyễn Đình Chiến, Phó Tổng Giám đốc kiêm Bí thư Đảng ủy Tập đoàn, khẳng định, và nói thêm: Đây cũng là tinh thần của Nghị quyết 59-NQ/TW về Hội nhập quốc tế trong tình hình mới đột phá, ban hành đầu năm 2025, xác định hội nhập là động lực chiến lược để Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới. Theo đó, các doanh nghiệp đầu tàu có nhiệm vụ hội nhập nhằm củng cố quan hệ đối tác chiến lược và đưa Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Những cánh tay nối dài trong ngoại giao công nghệ
Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị về phát triển công nghiệp công nghệ cao và kinh tế số giai đoạn 2025–2035, tầm nhìn đến năm 2045, đặt mục tiêu đưa Việt Nam trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo của khu vực, đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao và hình thành hệ sinh thái số hiện đại. Để hiện thực hóa mục tiêu này, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa trong nước và quốc tế.
Thực hiện Nghị quyết 57, các Đại sứ quán không chỉ “đi trước mở đường” mà còn có trách nhiệm thực sự “đồng hành” cùng doanh nghiệp trong từng bước phát triển, gắn lợi ích của doanh nghiệp với hiệu quả quan hệ song phương và uy tín quốc gia.
Theo Đại sứ Việt Nam tại Mozambique Trần Thị Thu Thìn, với tinh thần quán triệt Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị về phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong phát triển kinh tế, Đại sứ quán Việt Nam tại Mozambique xác định nhiệm vụ xây dựng và củng cố sự tin tưởng và tình cảm hữu nghị giữa hai nước trên tất cả các kênh là nhiệm vụ trọng tâm, coi đây là “tài sản chiến lược” của ngoại giao.

Đại sứ Trần Thị Thu Thìn khuyến cáo, Việt Nam cần xác định việc doanh nghiệp đầu tư tại các địa bàn xa xôi, còn nhiều khó khăn như tại các nước châu Phi đồng nghĩa với khả năng rủi ro lớn và cam kết lâu dài. Do đó, Chính phủ và các bộ, ban ngành cần xây dựng cơ chế hỗ trợ chiến lược, dài hơi.
“Ngoài việc hoàn thiện quy trình phê duyệt và cấp phép, cần nghiên cứu áp dụng các công cụ bảo hiểm rủi ro, ưu đãi tín dụng đồng thời tích cực đàm phán, ký kết các hiệp định bảo hộ đầu tư và tránh đánh thuế hai lần với các nước châu Phi. Đây là những biện pháp thiết thực nhằm bảo vệ quyền lợi và khuyến khích doanh nghiệp yên tâm đầu tư dài hạn”, Đại sứ Trần Thị Thu Thìn chia sẻ.
Đưa sản phẩm công nghệ cao Việt Nam vào thị trường Mỹ là một mục tiêu chiến lược mà Nghị quyết 57 đặt ra. Tuy nhiên, đây là thị trường có tiêu chuẩn kỹ thuật nghiêm ngặt và yêu cầu chất lượng cao. Ông Hoàng Anh Tuấn, Tổng Lãnh sự Việt Nam tại San Francisco cho hay, lãnh sự đã và đang hỗ trợ doanh nghiệp bằng cách tổ chức chương trình giới thiệu sản phẩm, hội chợ chuyên ngành và kết nối trực tiếp với các chuỗi phân phối, nhà cung ứng lớn. Các sản phẩm nổi bật bao gồm phần mềm, giải pháp AI, thiết bị IoT và chip bán dẫn.
Nhờ sự hỗ trợ này, một số doanh nghiệp Việt đã thành công bước đầu trong việc ký kết hợp đồng hợp tác và hiện diện tại thị trường Mỹ. Điều đó không chỉ mở rộng thị trường cho sản phẩm công nghệ cao của Việt Nam mà còn góp phần nâng cao giá trị gia tăng của nền kinh tế, phù hợp với mục tiêu “xuất khẩu trí tuệ” của Nghị quyết 57.

Trong bối cảnh cạnh tranh công nghệ toàn cầu gay gắt, Nghị quyết 57 là kim chỉ nam để Việt Nam phát triển kinh tế số và công nghệ cao. Lãnh sự quán Việt Nam tại San Francisco, với vai trò trung tâm ngoại giao công nghệ của Việt Nam tại Mỹ, lãnh sự khẳng định vị thế là “cầu nối thông minh” giữa Việt Nam và hệ sinh thái đổi mới toàn cầu.
Nhờ vị trí chiến lược tại trung tâm đổi mới sáng tạo toàn cầu – nơi hội tụ các tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới, ông Hoàng Anh Tuấn, Tổng Lãnh sự Việt Nam tại San Francisco, Mỹ, chia sẻ, để phát triển kinh tế số, Việt Nam cần nắm vững tiêu chuẩn công nghệ, bảo hộ sở hữu trí tuệ và xây dựng thương hiệu quốc tế. “Tổng Lãnh sự quán luôn đồng hành cùng doanh nghiệp Việt trong quá trình đàm phán, cung cấp thông tin thị trường, hỗ trợ giải quyết vướng mắc pháp lý và thương mại, góp phần giảm thiểu rủi ro và nâng cao khả năng cạnh tranh”, Tổng Lãnh sự Hoàng Anh Tuấn chia sẻ.
Theo đó, từ việc xúc tiến hợp tác, kết nối doanh nghiệp, hỗ trợ xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao, đến huy động trí thức kiều bào và định vị thương hiệu quốc gia, Tổng Lãnh sự quán không chỉ thực hiện nhiệm vụ ngoại giao truyền thống mà còn trở thành tác nhân thúc đẩy chuyển đổi số của đất nước.
Ông Hoàng Anh Tuấn nhấn mạnh, Nghị quyết 57 xác định rõ nhiệm vụ định vị thương hiệu Việt Nam như một quốc gia công nghệ đổi mới. Những năm qua, thông qua việc tham gia và hỗ trợ các sự kiện công nghệ toàn cầu về AI, kinh tế số, và chuyển đổi số, Tổng Lãnh sự quán đã góp phần khẳng định tầm nhìn công nghệ của Việt Nam, tạo dựng niềm tin với các tập đoàn công nghệ quốc tế.
“Việc truyền thông thông điệp “Vietnam – A Rising Tech Nation” trên các nền tảng mạng xã hội, trong các hội nghị công nghệ lớn tại Mỹ đã giúp Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn trong bản đồ đầu tư công nghệ toàn cầu. Đây chính là giá trị gia tăng bền vững mà ngoại giao công nghệ mang lại”, ông Hoàng Anh Tuấn chia sẻ.
Ông khẳng định, với tầm nhìn chiến lược và phương thức linh hoạt, Lãnh sự quán sẽ tiếp tục đồng hành cùng Việt Nam trong hành trình hiện thực hóa mục tiêu trở thành trung tâm công nghệ và đổi mới sáng tạo của khu vực vào năm 2045.
Tại thị trường khó tính nhất như Nhật Bản, theo ông Phạm Quang Hiệu, Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản nhận định, trong 5-10 năm tới, ngoại giao công nghệ sẽ giúp Việt Nam có thể tìm kiếm, thúc đẩy hợp tác, ứng dụng công nghệ của Nhật Bản phù hợp với trình độ tiếp nhận của Việt Nam như các công nghệ trong lĩnh vực chế biến, cơ khí-chế tạo, ứng dụng công nghệ tự động hoá-robot và AI để tăng năng suất và chất lượng sản phẩm trong các nhà máy sản xuất công nghiệp, nâng cao năng lực phát triển và làm chủ, tự chủ công nghệ các ngành công nghiệp nền tảng, đóng góp vào phát triển bền vững kinh tế đất nước.
Ðồng thời ngoại giao công nghệ tạo những điều kiện nền tảng để hai nước hỗ trợ, bổ trợ cho nhau trong tiếp cận các công nghệ chiến lược hiện nay và trong tương lai như bán dẫn, lượng tử, năng lượng mới…
“Việt Nam có nguồn nhân lực trẻ, năng động và đủ khả năng tiếp cận các công nghệ chiến lược, trong đó nhiều nhà khoa học người Việt Nam đã và đang giữ vị trí quan trọng như Giáo sư, Phó Giáo sư, trưởng Lab nghiên cứu trong cơ sở đào tạo và doanh nghiệp hàng đầu của Nhật Bản.
Các nhà khoa học này không chỉ cùng các đồng nghiệp Nhật Bản thúc đẩy nghiên cứu và phát triển công nghệ chiến lược mà còn đóng vai trò cầu nối quan trọng để thúc đẩy ngoại giao công nghệ, thúc đẩy hợp tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong các công nghệ chiến lược mà hai nước đang đặt trọng tâm”, Đại sứ Phạm Quang Hiệu nói.
Tuy nhiên, Đại sứ Hiệu cũng cho rằng, để xâm nhập vào thị trường công nghệ cao tại nước phát triển như thị trường Nhật Bản đã khó và để giữ vững và phát triển sẽ ngày càng gặp nhiều khó khăn và cạnh tranh cao.
“Ðể đạt được thành công, theo kinh nghiệm thời gian qua cho thấy các doanh nghiệp công nghệ cần chuẩn bị các điều kiện cần thiết như nguồn nhân lực chất lượng cao, am hiểu văn hóa kinh doanh Nhật và thành thạo tiếng Nhật - điều kiện tiên quyết để mở rộng tại Nhật Bản vì khách hàng Nhật không thường dùng tiếng anh trong kinh doanh nội địa. Ngoài ra, cần có sự đoàn kết, cùng chí hướng của các doanh nghiệp trong cùng ngành, tránh hoạt động manh mún và cạnh tranh khách hàng theo các hình thức không phù hợp”, Đại sứ nói.
Bên cạnh đó, việc tổ chức thành Hiệp hội chuyên ngành cũng tạo điều kiện để các cơ quan bộ, ngành và Ðại sứ quán có cơ hội hỗ trợ chính thức đồng loạt và hiệu quả cho Hiệp hội và các thành viên kết nối và thúc đẩy kinh doanh tại Nhật Bản.
Trong chiến lược ngoại giao công nghệ, vai trò của các Hiệp hội rất quan trọng. Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ CNTT Việt Nam (VINASA) hiện có hơn 600 hội viên. Các hội viên này không chỉ đóng góp hơn 70% tổng doanh thu ngành phần mềm và dịch vụ công nghệ thông Việt Nam mà còn là cánh tay nối dài trong “ngoại giao công nghệ” của Việt Nam. VINASA chính là cầu nối giữa chính phủ, doanh nghiệp, giữa chính sách với thực thi, giữa phản biện và xây dựng.
Năm 2024, VINASA tổ chức 4 hội nghị triển lãm trọng điểm, trình diễn 226 giải pháp chuyển đổi số, thu hút gần 9.000 lượt khách gồm chính phủ, doanh nghiệp và đối tác quốc tế, cùng gần 500 buổi kết nối Business Matching 1:1. Bên cạnh đó, VINASA vẫn tiếp tục mở rộng mạng lưới hợp tác quốc tế, kết nối các doanh nghiệp Việt Nam với thị trường toàn cầu với 16 đoàn doanh nghiệp đi quốc tế, hỗ trợ hơn 400 lượt doanh nghiệp mở rộng hợp tác tại các thị trường trọng điểm như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, châu Âu, Đài Loan (Trung Quốc), Anh, Singapore....

Cuối tháng 5/2025, VINASA đăng cai Diễn đàn Cấp cao Chuyển đổi số Việt Nam-châu Á, quy tụ hơn 2.500 đại biểu từ 16 quốc gia. Đây là những minh chứng rõ ràng về tầm ảnh hưởng quốc tế và sự chủ động của tổ chức trong hoạt động ngoại giao công nghệ.
Tuy nhiên, để ngoại giao công nghệ đi vào chiều sâu, Chủ tịch Hiêp hội VINASA kiêm Tổng Giám đốc FPT Nguyễn Văn Khoa cho hay, yếu tố ngoại giao nhân dân vẫn rất quan trọng. Ra nước ngoài, mỗi doanh nghiệp cần mang theo niềm tự hào dân tộc, tinh thần Việt Nam, đồng thời khắc phục điểm yếu cố hữu: chưa trở thành một cộng đồng mạnh. Khi đoàn kết, các doanh nghiệp Việt Nam mới có thể tạo nên sức mạnh tập thể, qua đó nâng cao vị thế và năng lực cạnh tranh của mình trên đấu trường quốc tế.
Nguồn: https://nhandan.vn/chieu-thuc-cua-doanh-nghiep-viet-chinh-phuc-thi-truong-cong-nghe-toan-cau-post906044.html
Bình luận (0)