Việt Nam đang nỗ lực chuyển đổi ngành lâm nghiệp theo hướng đa giá trị, không chỉ khai thác gỗ mà còn chú trọng bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển tín chỉ carbon. Tuy nhiên, cần có sự chung tay của cộng đồng và chính sách hỗ trợ phù hợp.
Cần có chính sách khuyến khích bảo vệ môi trường, phát triển thị trường tín chỉ carbon |
Ngành lâm nghiệp đóng góp lớn vào kinh tế quốc gia
Theo ông Trần Quang Bảo, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), diện tích đất quy hoạch lâm nghiệp trên cả nước hiện đạt 15,8 triệu ha, trong đó 14,8 triệu ha có rừng, chiếm hơn 93%. Đáng chú ý, gần 8 triệu ha là đất rừng sản xuất, phục vụ hiệu quả cho ngành chế biến lâm sản.
Về kinh tế, ngành lâm nghiệp đã có bước chuyển mình mạnh mẽ, nâng cao giá trị gia tăng trong chuỗi sản xuất. Giá trị sản xuất lâm nghiệp tăng trưởng ổn định 4,7%/năm. Năng suất và chất lượng rừng trồng được cải thiện, cung cấp hơn 70% nguyên liệu gỗ cho chế biến, phục vụ xuất khẩu và tiêu dùng nội địa. Năm 2024, giá trị xuất khẩu gỗ và lâm sản đạt trên 17,2 tỷ USD, với xuất siêu ước tính khoảng 14,4 tỷ USD. Riêng 2 tháng đầu năm 2025, con số này đạt 2,52 tỷ USD, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm trước.
Ông Bảo kiến nghị bổ sung khoản thu từ dịch vụ môi trường rừng (khoảng 3.000 tỷ đồng/năm) vào giá trị sản xuất của ngành, nhằm phản ánh đầy đủ đóng góp của lâm nghiệp vào kinh tế - xã hội. Nguồn thu này được xem là nguồn lực quan trọng để tái đầu tư, nâng cao chất lượng rừng và hỗ trợ cộng đồng sống gần rừng.
Tuy nhiên, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Quốc Trị thừa nhận, nhiều dự án bảo vệ và phát triển rừng chưa được đầu tư đầy đủ. Nguyên nhân chính là do chu kỳ sản xuất kinh doanh lâm nghiệp dài ngày, nhiều rủi ro, khiến nguồn vốn thiếu bền vững. Việc bảo vệ và phục hồi rừng tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học tuy tốn kém nhưng lợi ích kinh tế lại khó thu hồi trong ngắn hạn.
Thứ trưởng Nguyễn Quốc Trị cũng chỉ ra rằng, quy hoạch lâm nghiệp thường bị ảnh hưởng bởi các quy hoạch khác như giao thông, hạ tầng và kinh tế, gây khó khăn trong quản lý. Hệ thống chính sách hỗ trợ rừng hiện còn phân tán, dễ chồng chéo. Để khắc phục, ngành đã đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho địa phương, tạo sự linh hoạt trong triển khai. Tuy nhiên, nhân lực chất lượng cao và hạ tầng yếu kém vẫn là những rào cản cần được đầu tư mạnh mẽ.
Hiện cả nước có khoảng 1,2 triệu chủ rừng, trong đó 2.000 chủ rừng (chủ yếu là công ty nhà nước) chiếm tới 50% tổng diện tích rừng. Tại một số khu vực, chủ rừng là hộ cá nhân sống xen kẽ với chủ rừng nhà nước, gây khó khăn trong việc thay đổi tập quán canh tác của 20 triệu người dân sinh sống tại vùng đệm các khu rừng.
Ngành lâm nghiệp hướng tới phát triển bền vững, đa giá trị
Theo thống kê từ Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm, Việt Nam hiện có 15,8 triệu ha đất quy hoạch lâm nghiệp, trong đó 14,8 triệu ha đã được phủ xanh bởi rừng (chiếm hơn 93%). Trong số này, gần 8 triệu ha là đất rừng sản xuất. Với tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân 4,7%/năm, trong vài năm tới, đóng góp của ngành lâm nghiệp sẽ tiếp tục gia tăng đáng kể.
Tại buổi làm việc với Cục Lâm nghiệp và Kiểm Lâm mới đây, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy nhấn mạnh: “Phát triển lâm nghiệp thành ngành kinh tế bền vững, đa mục tiêu là điều cần hướng tới. Lâm nghiệp không chỉ đơn thuần là phát triển kinh tế mà còn gắn liền với bảo vệ môi trường, bảo tồn sinh thái và phát triển bền vững”.
Ông cũng đề cập đến tiềm năng của tín chỉ carbon - nguồn tài nguyên quý giá của Việt Nam và dự báo đây sẽ trở thành công cụ mạnh mẽ trong các cuộc đàm phán quốc tế.
Ông Đỗ Đức Duy cho rằng, mức khoán bảo vệ rừng hiện nay cho mỗi hộ gia đình còn quá thấp, khó đảm bảo cuộc sống và tạo động lực để người dân yên tâm gắn bó với ngành. Đây cũng là một trong những rào cản lớn trong việc xây dựng nông thôn mới tại các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa và các khu bảo tồn thiên nhiên.
Bộ trưởng Đỗ Đức Duy đã đưa ra định hướng phát triển lâm nghiệp theo hướng “đa giá trị, đa mục tiêu”, tập trung vào 4 nhóm nhiệm vụ chính: Bộ sẽ rà soát và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, giải quyết tình trạng chồng chéo giữa quản lý rừng và các lĩnh vực như đất đai, bảo tồn đa dạng sinh học. Năm 2024, Bộ đã tham mưu Chính phủ ban hành nhiều nghị định nhằm tháo gỡ khó khăn cho địa phương, đặc biệt trong việc chuyển đổi mục đích sử dụng rừng.
Ngoài khai thác gỗ, Bộ trưởng khuyến khích phát triển các mô hình kinh tế dưới tán rừng, du lịch sinh thái và bảo tồn. Ông nhấn mạnh vai trò của tín chỉ carbon như một công cụ đàm phán quốc tế trong tương lai, đồng thời kêu gọi tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng về giá trị đa dạng của rừng.
Ông Đỗ Đức Duy yêu cầu đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý, bảo vệ rừng và ứng phó thiên tai. Việc thí điểm cấp mã số vùng trồng rừng tại 10 tỉnh trong năm 2024 đã mang lại kết quả tích cực, tạo tiền đề xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu rừng trồng và truy xuất nguồn gốc gỗ trên toàn quốc.
Thứ trưởng Nguyễn Quốc Trị thừa nhận, nguồn vốn đầu tư cho phát triển rừng còn thiếu bền vững do chu kỳ sản xuất dài và nhiều rủi ro. Các dự án bảo vệ rừng tự nhiên, nâng cao chất lượng rừng và bảo tồn đa dạng sinh học đòi hỏi chi phí lớn nhưng lợi ích kinh tế ngắn hạn chưa rõ ràng.
Bộ trưởng Đỗ Đức Duy kêu gọi nghiên cứu chính sách khuyến khích bảo vệ môi trường, phát triển thị trường tín chỉ carbon và nâng cao đãi ngộ cho lực lượng lao động lâm nghiệp.
“Mức khoán bảo vệ rừng hiện nay quá thấp, khó đảm bảo đời sống người dân. Đây là rào cản lớn trong xây dựng nông thôn mới tại các vùng sâu, vùng xa”, ông Đỗ Đức Duy nói thêm.
Nguồn: https://thoibaonganhang.vn/lam-nghiep-viet-nam-chuyen-minh-manh-me-theo-huong-xanh-va-ben-vung-161248.html
Bình luận (0)