Những tấm gương hy sinh cao cả đó đã hòa vào bản anh hùng ca về chủ chủ nghĩa yêu nước sáng ngời, góp phần làm nên chiến thắng Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước. Liệt sĩ Lê Quang Lộc là một tấm gương tiêu biểu.
Liệt sĩ Lê Quang Lộc, (bí danh Sáu Ngọc, Sáu Quý) sinh ngày 25/10/1940 tại Trà Ôn, Cần Thơ (nay là huyện Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long), là con út trong một gia đình khá giả. Tuổi thơ cắp sách đến trường, phải chứng kiến cuộc sống nghèo khó của những người bạn học, cảnh những người cán bộ cách mạng, người dân hiền lành, vô tội bị địch đánh đập, giết hại ngay trên quê hương mình, trái tim trẻ thơ của anh không được hồn nhiên, vô tư được nữa. Anh bắt đầu căm ghét những kẻ tàn sát đồng bào mình và tìm hiểu về Việt Minh, về những người anh hùng của dân tộc.
Sự hy sinh cao cả của họ đã hòa vào bản anh hùng ca về chủ chủ nghĩa yêu nước sáng ngời.
Năm 1954, từ chối vào Trường Thiếu sinh quân ở Mỹ Tho, anh vào học tại Trường Huỳnh Khương Ninh, một ngôi trường giàu truyền thống yêu nước. Như mầm cây non gặp đất tốt, từ đây, anh bắt đầu tham gia cách mạng và làm giao liên cánh học sinh trong thành phố Sài Gòn.
Tháng 7/1959, anh chính thức vào tổ chức cách mạng và được giao nhiệm vụ làm giao liên, in ấn và rải truyền đơn. Sau đó, anh được phân công tổ chức một bộ phận in ấn ngay tại nhà mình. Những tờ truyền đơn vận động tuyên truyền cách mạng do anh tổ chức in đã tỏa ra khắp thành phố Sài Gòn-Gia Định.
Năm 1960, anh bị bắt cùng với một số đồng chí khác. Địch đưa anh đi khắp các khám Chí Hòa, Thủ Đức, Tân Hiệp… tra tấn dữ dội suốt nhưng không moi được thông tin. Sau đó, chúng đưa anh ra tòa án quân sự xử kín. Trước tòa, với phong thái chững chạc, điềm tĩnh, anh trình bày mạch lạc, khẳng khái rằng yêu nước không có tội. Khi luật sư (được đặc cách đến tòa bào chữa cho Lê Quang Lộc) xin tòa “xem xét cho thân chủ vì tuổi còn trẻ nên làm việc không suy xét”, anh đã phản bác lại: “Bà không cần và không nên biện hộ như vậy. Tôi biết rõ những việc tôi làm”. Anh bị kết án 5 năm tù.
Khi luật sư (được đặc cách đến tòa bào chữa cho Lê Quang Lộc) xin tòa “xem xét cho thân chủ vì tuổi còn trẻ nên làm việc không suy xét”, anh đã phản bác lại: “Bà không cần và không nên biện hộ như vậy. Tôi biết rõ những việc tôi làm”.
Khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ, anh được thả tự do. Sau khi ra tù, anh được gia đình lo cho vào học ở Trường Pétrus Ký. Mẹ anh tuổi đã cao mong anh lấy vợ để bà yên tâm. Thương nỗi niềm của mẹ nhưng rồi những hình ảnh tang thương của dân tộc, cảnh đồng chí, đồng đội bị giết hại, bị tra tấn tàn bạo trong tù, những lời dặn dò của các lãnh đạo phong trào vẫn luôn thường trực trong trái tim người thanh niên Lê Quang Lộc nên anh đã gác lại những việc riêng tư, giấu cha mẹ tìm cách móc nối lại với tổ chức.
Từ năm 1963-1966, anh được phân công làm nội tuyến. Năm 1966, anh được điều động về Trường đại học Văn khoa, một trong những cái nôi của phong trào đấu tranh của sinh viên, học sinh Sài Gòn để gây dựng, phát triển cơ sở cách mạng. Tại đây, anh được bầu làm Chủ tịch Hội đồng đại diện sinh viên Văn khoa niên khóa 1966-1967 rồi Chủ tịch Ban Chấp hành sinh viên Văn khoa niên khóa 1967-1968.
Cuộc tranh cử vào Ban Chấp hành sinh viên Văn khoa niên khóa 1967-1968 diễn ra căng thẳng, phức tạp. Kết quả cuối cùng liên danh Lê Quang Lộc đã chiến thắng nhờ sự chuẩn bị kỹ lưỡng, sự ủng hộ của sinh viên và sự điềm tĩnh, ứng xử thông minh, xuất sắc của anh. Chiến thắng này có ý nghĩa to lớn mở ra một giai đoạn mới cho phong trào sinh viên Văn khoa cả về thế và lực, đặc biệt là xác lập hoàn toàn quyền lãnh đạo nòng cốt công khai. Hoạt động công khai giữa Sài Gòn với rất nhiều thách thức, hiểm nguy rình rập khi công an, mật vụ ráo riết theo dõi, đàn áp nhưng Lê Quang Lộc không bận tâm, sờn lòng.
Cùng với Ban Chấp hành Sinh viên Văn khoa và các trường khác, Lê Quang Lộc năng nổ, xông xáo tổ chức cho sinh viên đấu tranh chính trị dưới nhiều hình thức: mít tinh, hội thảo, bãi khóa, biểu tình đòi hòa bình, chấm dứt chiến tranh, đòi tự do báo chí, chống đàn áp công nhân, chống sưu cao thuế nặng, chống bắt lính sinh viên… Với những nỗ lực và đóng góp không ngừng nghỉ, tháng 7/1967, Lê Quang Lộc vinh dự được đứng vào hàng ngũ của Đảng.
Tết Mậu Thân năm 1968, chiến sự nổ ra ác liệt giữa lòng Sài Gòn, Tổng Hội Sinh viên và Tổng đoàn Học sinh Sài Gòn nhanh chóng tổ chức các Trung tâm cứu trợ đồng bào bị nạn. Lê Quang Lộc được bố trí làm Trưởng Trung tâm tiếp cư Gia Định (nay là Bệnh viện Ung bướu) đón đồng bào lánh nạn và tiếp tế nhu yếu phẩm… Đang làm tốt công tác cứu trợ, ngày 19/02/1968, anh được lệnh vào mật khu gấp nhận nhiệm vụ mới: tham gia Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam. Anh nhận nhiệm vụ mà không kịp nói lời tạm biệt cha mẹ già, bạn gái Huỳnh Quan Thư - người đã sát cánh bên anh trong phong trào công khai ở Đại học Văn khoa, người mà anh dành nhiều tình cảm thương mến nhưng vì chiến tranh, còn nhiều gian khổ, hy sinh ở phía trước nên anh chưa ngỏ lời.
Từ năm 1970-1973, Lê Quang Lộc được tổ chức phân công công tác tại Thành Đoàn với chức danh Ủy viên Ban Chấp hành, Chánh Văn phòng rồi Phó ban Tuyên huấn. Trải qua những tháng ngày xa cách để cùng nhau dốc sức, dốc lòng cho cuộc kháng chiến, năm 1970, tổ chức tạo điều kiện cho anh và chị Huỳnh Quan Thư gặp nhau tại căn cứ Thành Đoàn bên dòng sông Sở Thượng (giáp biên giới Campuchia).
Tháng 4/1971, cùng với các cặp đôi khác, anh chị được tổ chức đám cưới tập thể giản dị, ấm cúng ngay tại căn cứ. Năm 1972, chị Huỳnh Quan Thư hạ sinh con trai đầu lòng nhưng anh Lê Quang Lộc chưa được gặp mặt con vì vẫn đang đóng ở căn cứ Thành Đoàn trên đất Campuchia. Khi con trai mới 4 tháng tuổi, chị Huỳnh Quan Thư phải gửi con lại cho gia đình, bôn ba vượt muôn trùng gian khó, hiểm nguy để trở lại căn cứ của Thành Đoàn hoạt động.
Sau hiệp định Paris năm 1973, anh Lê Quang Lộc làm Trưởng Đoàn cán bộ của Thành Đoàn, mở đường trở về miền nam và lập căn cứ ở Thanh An, Bến Cát, Bình Dương. Với chức trách là Phó ban Tuyên huấn Thành Đoàn, anh mở lớp bồi dưỡng dài hạn cho các học viên. Tại đây, anh vừa miệt mài, hăng say công tác, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, vừa quan tâm, chăm lo cho đồng chí, đồng đội chu đáo, tận tình. Đầu năm 1975, tình hình chiến sự miền nam sôi động, Thành Đoàn chia làm 2 cánh, cánh A phụ trách nội thành, cánh B phụ trách các huyện ngoại thành. Anh Lê Quang Lộc giữ chức Thường trực cánh B, căn cứ đóng ở Thanh An. Sau bao tháng ngày mong ngóng, nhớ thương, hai lần viết thư về gia đình nhắn đứa con vào căn cứ cho anh gặp, ngày 23/3/1975, lần đầu tiên anh được gặp mặt con trai đầu lòng 4 tuổi tại căn cứ trong niềm hạnh phúc bất tận nhưng không thể ngờ đây cũng là lần cuối.
Ngày 2/4/1975, anh bịn rịn chia tay vợ con để cả hai chuẩn bị bước vào trận chiến mới. Thời cơ cách mạng đã đến, Trung ương Đảng quyết định mở Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Thành Đoàn gấp rút bố trí lực lượng để đáp ứng yêu cầu của thời cơ mới. Đảng ủy học sinh-sinh viên triển khai vào nội thành để xây dựng những điểm khởi nghĩa. Anh Lê Quang Lộc được bố trí làm thường trực cho bộ phận Thành Đoàn. Anh được tổ chức phân công là một mũi tiền tiêu tiến về giải phóng Sài Gòn. Trên đường hành quân, mũi tiền tiêu do anh chỉ huy bị lọt vào trận địa pháo của giặc. Anh Lê Quang Lộc và các đồng đội đã dũng cảm, kiên cường chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Anh hy sinh tại xã Đông Thạnh, huyện Hóc Môn vào đêm 14 rạng sáng ngày 15/4/1975.
Xuất thân trong một gia đình khá giả, Lê Quang Lộc hoàn toàn có thể chọn cho mình một cuộc sống an nhàn nhưng anh đã tự nguyện dấn thân vào con đường đấu tranh cách mạng gian khổ, hiểm nguy. Anh đã sống hết mình với lý tưởng, cống hiến trọn vẹn tuổi thanh xuân và tính mạng của mình cho Tổ quốc nhưng chưa kịp một lần về thăm lại cha mẹ già sau nhiều năm xa cách, chưa kịp gặp mặt cô con gái bé bỏng, chưa kịp thực hiện điều mà anh đã an ủi vợ mình “Hòa bình rồi anh sẽ bù cho em tất cả”.
Ngày 30/4/1975, trong niềm hân hoan, hạnh phúc vô bờ của toàn thể dân tộc, trong niềm vui sum họp của mỗi gia đình, chị Huỳnh Quan Thư vẫn tất tả ngược xuôi đi khắp nơi tìm chồng mà không hay biết anh Lê Quang Lộc đã hy sinh trước đó 2 tuần. Nỗi đau quá lớn, sợ mẹ anh không chịu đựng nổi, anh chị em trong nhà đều thống nhất giấu tin anh đã hy sinh cho đến năm 1982, bà mất vẫn tin con mình còn sống.
Bà Huỳnh Quan Thư (vợ liệt sĩ Lê Quang Lộc) trao tặng kỷ vật cho Bảo tàng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Liệt sĩ Lê Quang Lộc, người cán bộ Thành Đoàn, người cán bộ Mặt trận mẫn cán, tràn đầy nhiệt huyết, thông minh, quả cảm đã anh dũng ngã xuống trước ánh bình minh của Đại thắng mùa Xuân năm 1975 khi mới 35 tuổi. Nhưng cũng như bao liệt sĩ khác, anh trở thành ngọn đuốc bất tử trong những trang sử hào hùng của dân tộc được viết bằng xương máu. Năm 1985, báo Tuổi Trẻ đã thành lập xưởng in đề nghị mang tên Lê Quang Lộc , sau này phát triển thành xí nghiệp rồi công ty in Lê Quang Lộc để tưởng nhớ và tri ân anh.
Anh sống mãi trong lòng gia đình, bạn bè, đồng chí, đồng đội, đồng bào với lòng tiếc thương và biết ơn vô hạn: “Nét đẹp của anh toát lên từ lòng say mê lý tưởng cách mạng, từ tâm hồn thanh cao, trong sáng, từ cuộc sống cá nhân chuẩn mực “hơi già trước tuổi” nhưng đầy tình yêu đồng chí, đồng đội và chân chất nhẹ nhàng. Làm việc với Lê Quang Lộc ai cũng thấy vững lòng tin và cảm nhận được niềm khao khát chiến thắng của anh. Anh đã hy sinh nhiều quá trong suốt cuộc đời đấu tranh cách mạng. Anh thật xứng đáng với những nhiệm vụ được giao, anh càng xứng đáng hơn khi đứng vào hàng ngũ những liệt sĩ anh hùng đã có trong tay tất cả hạnh phúc mà cũng đã nhường tất cả hạnh phúc cho đời”.
Ngày xuất bản: 28/3/2025
Trình bày: Ngọc Diệp
Nhandan.vn
Nguồn:https://special.nhandan.vn/lietsiLeQuangLoc-ngonduocbattu/index.html
Bình luận (0)