Nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng việc đánh thuế với hộ kinh doanh theo tỉ lệ doanh thu sau khi bỏ thuế khoán là chưa hợp lý, tạo gánh nặng cho người kinh doanh nhỏ lẻ - Ảnh: QUANG ĐỊNH
Ngày 5-11, Quốc hội đã thảo luận tại tổ về các dự án Luật Quản lý thuế (sửa đổi) và Luật thuế thu nhập cá nhân (sửa đổi), nhiều ý kiến đại biểu cho rằng chính sách thuế cho hộ kinh doanh và mức giảm trừ gia cảnh với thuế thu nhập cá nhân (TNCN) theo đề xuất của Chính phủ là chưa phù hợp.
Áp thuế theo doanh thu, hộ kinh doanh bị thiệt
Điểm đáng chú ý nhất của dự Luật Quản lý thuế là việc quản lý thuế đối với hộ kinh doanh, khi Chính phủ đề xuất việc áp dụng tính thuế theo tỉ lệ phần trăm trên doanh thu sau khi thực hiện chủ trương bỏ thuế khoán sẽ áp dụng từ ngày 1-1-2026.
Theo đại biểu Trần Văn Lâm (Bắc Ninh), chủ trương sửa đổi là hợp lý, nhưng nếu áp dụng cơ chế trên sẽ tạo gánh nặng và bất công, bất hợp lý, thiệt thòi cho hộ kinh doanh, đặc biệt là hộ kinh doanh nhỏ lẻ - vốn là đối tượng yếu thế.
Bởi nếu so sánh tỉ lệ phần trăm trên doanh thu mà hộ kinh doanh phải nộp với các doanh nghiệp, đơn vị thực hiện chế độ hạch toán kế toán đầy đủ, mức tỉ suất phải nộp/doanh thu của hộ kinh doanh sẽ cao hơn nhiều lần so với đối tượng này.
Trong thực tế, mức lãi/doanh thu của hộ kinh doanh thông thường là 3 - 5%, giỏi nhất là 10%, nếu tính mức thuế áp từ 1 - 5%, tức là "hết cả lãi" của người kinh doanh.
Cũng theo ông Lâm, quy định về ngưỡng doanh thu không chịu thuế của hộ, cá nhân kinh doanh tại Luật Thuế TNCN cũng là bất hợp lý. Với người kinh doanh, mức doanh thu 200 triệu đồng/năm, tương đương 16,6 triệu đồng/tháng, lợi nhuận bình quân được 10%, thu nhập thực tế mới chỉ có 1,6 triệu đồng/tháng đã phải nộp thuế.
Trong khi đó, người có thu nhập phải chịu thuế là từ 10 - 11 triệu đồng/tháng, nên nếu áp dụng quy định như vậy cho người kinh doanh, sẽ là bất hợp lý, thiệt thòi khi họ còn có người phụ thuộc và mức lãi thấp.
Đại biểu Hoàng Văn Cường (Hà Nội) cũng cho rằng cần làm rõ thuế thu nhập là phần thu nhập, không phải doanh thu. Chẳng hạn, người bán 200 hộp sữa (doanh thu 200 triệu đồng), nhưng thu nhập có khi chỉ được 10 triệu đồng, mà phải nộp thuế ngay.
Trong khi đó, thợ cắt tóc có doanh thu 200 triệu đồng, chi phí chỉ 50 triệu đồng, thu nhập khoảng 150 triệu đồng lại không phải chịu thuế.
Vì vậy, theo ông Cường, quy định bắt đầu nộp thuế thu nhập từ doanh thu 200 triệu đồng là không công bằng, cần quy định là thu nhập thực tế. "Tôi đề nghị đối với thuế thu nhập người kinh doanh nên chia theo các nhóm ngành nghề kinh doanh (dịch vụ bán buôn, bán hàng hóa, dịch vụ thông thường, sản xuất)", đại biểu Cường nói.
Theo đại biểu Trần Thị Hiền (Ninh Bình), cần nghiên cứu kỹ lưỡng quy định, bảo đảm phù hợp với tinh thần nghị quyết số 68 và mục tiêu cải thiện đời sống cho người dân. Xác định giai đoạn chuyển tiếp dành riêng cho hộ kinh doanh và doanh nghiệp siêu nhỏ, có thể trong vòng 1 - 2 năm như kê khai đơn giản, hoặc cơ quan thuế hỗ trợ khai thay với dữ liệu sẵn có.
Mức giảm trừ gia cảnh phải đảm bảo chi trả cho cuộc sống
Trong khi đó, đề xuất nâng mức giảm trừ gia cảnh với các đối tượng chịu thuế TNCN cũng được các đại biểu đánh giá là chưa phù hợp. Theo đề xuất tại tờ trình của Chính phủ, điều chỉnh mức GTGC đối với người nộp thuế là 15,5 triệu đồng/tháng và 6,2 triệu đồng/tháng cho mỗi người phụ thuộc.
Đại biểu Nguyễn Thị Lệ (TP.HCM) cho rằng thực tiễn cho thấy mức giảm trừ gia cảnh không còn phù hợp với mức sống tại các đô thị lớn, đặc biệt là TP.HCM - nơi có chi phí sinh hoạt cao, giá cả hàng hóa dịch vụ tăng nhanh. Nếu tiếp tục duy trì mức giảm trừ cũ, số đông người lao động ở phân khúc trung bình sẽ cảm nhận rõ gánh nặng thuế và từ đó hạn chế tiêu dùng.
Do đó, bà Lệ đề nghị dự thảo cần nâng mức giảm trừ gia cảnh, đồng thời thiết kế cái cơ chế linh hoạt để Chính phủ có thể điều chỉnh định kỳ theo chỉ số giá tiêu dùng (CPI), tránh tình trạng luật nhanh chóng lạc hậu.
Ngoài ra, cần bổ sung quy định cho phép Chính phủ chủ động trình với Ủy ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh các mức giảm trừ, miễn thuế, thuế suất trong trường hợp có biến động lớn về giá cả hoặc khủng hoảng kinh tế.
"Điều này giúp cho chính sách thuế vừa đảm bảo vai trò điều tiết vừa kịp thời hỗ trợ cho nền kinh tế", bà Lệ nhấn mạnh. Đại biểu Nguyễn Như So (Bắc Ninh) cũng cho rằng mức giảm trừ cho người phụ thuộc 6,2 triệu đồng là thấp so với mặt bằng chi phí sinh hoạt hiện nay, khi giá cả các mặt hàng thiết yếu, chi phí chăm sóc sức khỏe, giáo dục, dinh dưỡng gia tăng mạnh.
Vì vậy, ông So đề nghị điều chỉnh mức giảm trừ cho người phụ thuộc lên khoảng 50% mức giảm trừ của người nộp thuế, chính sách thuế thực sự mang tính nhân văn, tạo động lực ổn định đời sống hộ gia đình và củng cố nền tảng an sinh xã hội.
Theo đại biểu Ma Thị Thúy (Tuyên Quang), mức giảm trừ gia cảnh chưa tính đến các yếu tố đối tượng ở nông thôn hay thành thị, có con học bậc nào, phải chăm sóc bố mẹ ốm đau bệnh tật hay không... Đặc biệt, thu nhập của các đối tượng ở thành thị, nông thôn là rất khác nhau; chi phí của các gia đình có con học đại học cũng lớn hơn rất nhiều so với gia đình có con nhỏ.
Do đó, bà Thúy đề xuất mức giảm trừ gia cảnh cần có sự phân loại theo mức chi tiêu của các đối tượng: phân biệt giữa thành thị và nông thôn, giảm trừ gia cảnh ở mức cao hơn cho những đối tượng phải nuôi con học đại học, nuôi người bệnh, người khuyết tật. Mục tiêu là để người có thu nhập chịu thuế đủ bảo đảm chi trả cho cuộc sống.
Cần xem xét kỹ việc áp thuế với vàng
Theo đại biểu Hoàng Văn Cường (Hà Nội), vàng là tài sản tích trữ để dành, nên việc đánh thuế với các giao dịch mua, bán vàng cần được xem là giải pháp để bình ổn thị trường vàng trong bối cảnh biến động bất thường.
Do đó, ông Cường đề nghị giao cho Chính phủ được quyền áp dụng chính sách thuế này để điều chỉnh khi thị trường có biến động bất thường, áp dụng trong giai đoạn cấp bách (ví dụ 6 tháng hoặc vài tháng), thay vì áp dụng chính sách này thường xuyên.
Đại biểu Lê Thị Thanh Lam (Cần Thơ) cũng cho rằng việc áp thuế 0,1% với mỗi giao dịch mua bán như đề xuất cần được triển khai với sự phân biệt rõ ràng giữa hoạt động đầu cơ và vấn đề tích trữ để không ảnh hưởng đến những người dân mua vàng chỉ nhằm hình thức là tiết kiệm.
"Từ lâu việc trích nhượng một phần thu nhập để mua vàng đã là tâm lý, là thói quen của người dân Việt Nam chúng ta. Có tiền thì tiết kiệm mua vàng để phòng khi cần thiết", bà Lam nói và cho rằng việc quy định ngưỡng giá trị chuyển nhượng vàng miếng chịu thuế chỉ phát huy hiệu quả khi chính sách được triển khai với lộ trình rõ ràng, minh bạch.
Cũng theo bà Lam, cần xây dựng cơ chế khai báo và khấu trừ linh hoạt, cho phép các tổ chức kinh doanh vàng hoặc sàn giao dịch trong tương lai hoặc là ngân hàng thương mại thực hiện khấu trừ và thủ tục nộp thuế thay cho người giao dịch, giúp giảm gánh nặng thủ tục cho cá nhân.
Đồng thời cũng tích hợp khai báo thuế điện tử thông qua hệ thống dữ liệu thuế quốc gia để đồng bộ thông tin, nâng cao khả năng giám sát, tăng tính minh bạch và hiệu quả trong thực thi chính sách.
Đại biểu Trần Văn Lâm (Bắc Ninh) cũng cho rằng vàng tích lũy trong dân là vàng tiết kiệm để dùng cho những việc quan trọng như mua nhà, xây dựng nhà cho con, nhưng khi đem ra bán lại bị đánh thuế, tức là đang thu thuế trên tiền tiết kiệm của người dân là bất hợp lý.
Do đó, theo ông Lâm, có thể tính thuế vào vàng nhưng ở mức khởi điểm là bao nhiêu, chứ không phải một cây vàng, một chỉ vàng cũng đánh thuế. Chẳng hạn, mức khởi điểm đánh thuế với vàng có thể bằng với giá trị căn hộ nhà ở xã hội, hoặc căn cứ vào đời sống và mức sống của người dân, tránh tình trạng vàng phải chịu nhiều lần đánh thuế.
Nguồn: https://tuoitre.vn/lo-ganh-nang-thue-cho-ho-kinh-doanh-20251105231439411.htm






Bình luận (0)