Chủ trương, chính sách đẩy mạnh chuyển đổi số trong ngành du lịch Việt Nam
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia nói chung và chuyển đổi số trong hoạt động du lịch nói riêng, như Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27-9-2019, của Bộ Chính trị, “Về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”. Nghị quyết nêu rõ định hướng tập trung phát triển một số ngành, lĩnh vực ưu tiên, trong đó có du lịch số. Quyết định số 147/QĐ-TTg, ngày 22-1-2020, của Thủ tướng Chính phủ “Phê duyệt Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030” cũng đặt ra nhiệm vụ cho ngành du lịch phải đẩy mạnh ứng dụng những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, hướng đến hình thành và phát triển hệ sinh thái du lịch thông minh. Nghị quyết số 82/NQ-CP, ngày 18-5-2023, của Chính phủ, “Về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đẩy nhanh phục hồi, tăng tốc phát triển du lịch hiệu quả, bền vững” đã giao Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xây dựng hệ sinh thái du lịch thông minh, hỗ trợ công tác quản lý nhà nước, kinh doanh dịch vụ du lịch, nâng cao trải nghiệm của khách du lịch, bao gồm xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu du lịch quốc gia; phát triển trang mạng du lịch quốc gia, ứng dụng du lịch quốc gia “Du lịch Việt Nam - Vietnam Travel”, thẻ Việt - thẻ du lịch thông minh phục vụ khách du lịch; phát triển nền tảng số “Quản trị và kinh doanh du lịch”. Chỉ thị số 08/CT-TTg, ngày 23-2-2024, của Thủ tướng Chính phủ, “Về phát triển du lịch toàn diện, nhanh và bền vững thời gian tới” yêu cầu địa phương bố trí nguồn lực phù hợp cho công tác chuyển đổi số du lịch đồng bộ với nội dung chuyển đổi số do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì thực hiện.
Trước yêu cầu của bối cảnh mới, ngày 22-12-2024, Nghị quyết số 57-NQ/TW “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”, đã được ban hành, khẳng định quan điểm phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới. Một trong những mục tiêu quan trọng đặt ra đến năm 2030 là: quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương trên môi trường số, kết nối và vận hành thông suốt giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị; hoàn thành xây dựng, kết nối, chia sẻ đồng bộ cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu các ngành; khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên số, dữ liệu số, hình thành sàn giao dịch dữ liệu; phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số, công nghiệp văn hóa số đạt mức cao của thế giới; Việt Nam thuộc nhóm các nước dẫn đầu về an toàn, an ninh không gian mạng, an ninh dữ liệu và bảo vệ dữ liệu.
Tầm nhìn đó đặt ra cho ngành du lịch yêu cầu cấp bách thúc đẩy mạnh mẽ đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số nhằm phục vụ công tác quản lý nhà nước, kinh doanh dịch vụ du lịch, nâng cao trải nghiệm cho khách du lịch, tạo lập nền tảng để hình thành hệ sinh thái du lịch thông minh, tạo sự kết nối liên thông, đồng bộ, thống nhất từ Trung ương đến địa phương.
Thực trạng chuyển đổi số trong ngành du lịch Việt Nam
Ngay từ năm 2018, căn cứ Chỉ thị số 16/CT-TTg, ngày 4-5-2017, của Thủ tướng Chính phủ “Về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1671/QĐ-TTg, ngày 30-11-2018, “Về việc phê duyệt Đề án tổng thể ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực du lịch giai đoạn 2018 - 2020, định hướng đến năm 2025”. Đây là cơ sở để ngành du lịch đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin phát triển hệ sinh thái du lịch thông minh, tạo môi trường cho cộng đồng, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo phù hợp với xu hướng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành du lịch Việt Nam.
Năm 2022, Đề án “Ứng dụng công nghệ của công nghiệp 4.0 để phát triển du lịch thông minh, thúc đẩy du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn” của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch được ban hành. Trong giai đoạn ngành du lịch bị ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, tốc độ chuyển đổi số càng diễn ra nhanh chóng, thể hiện sự chủ động và thích ứng linh hoạt của ngành du lịch Việt Nam. Nhờ đó, hoạt động kết nối, xúc tiến quảng bá du lịch được đổi mới, tăng cường triển khai mạnh mẽ trên nền tảng số; thông tin, dữ liệu trong ngành từng bước được kết nối liên thông, tạo lập cơ sở dữ liệu chung; sản phẩm du lịch ứng dụng công nghệ mới, như thực tế ảo, thực tế tăng cường, trí tuệ nhân tạo, mang lại giá trị gia tăng lớn hơn và trải nghiệm độc đáo hơn cho khách du lịch; giao dịch thương mại điện tử và thanh toán không dùng tiền mặt trong du lịch ngày càng phổ biến...
Ngành du lịch Việt Nam đã vận hành nền tảng dùng chung nhằm hỗ trợ công tác quản lý nhà nước về du lịch, hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch và nâng cao trải nghiệm cho khách du lịch, cụ thể như sau:
Hệ thống cơ sở dữ liệu du lịch Việt Nam: phục vụ công tác quản lý nhà nước về du lịch từ Trung ương đến địa phương, với nhiều cơ sở dữ liệu thành phần, như doanh nghiệp lữ hành, cơ sở lưu trú, hướng dẫn viên, khu/điểm du lịch...
Phần mềm báo cáo thống kê du lịch từ Trung ương đến cơ sở: hỗ trợ địa phương, doanh nghiệp ngành du lịch thực hiện chế độ báo cáo thống kê định kỳ và đột xuất theo quy định tại các văn bản của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Ứng dụng “Du lịch Việt Nam - Vietnam Travel”: là nền tảng số tích hợp đa dịch vụ nhằm hỗ trợ toàn diện khách du lịch với nhiều tiện ích, như tra cứu thông tin điểm đến, sản phẩm, dịch vụ du lịch; bản đồ số du lịch; đặt vé máy bay, đặt phòng, mua vé tham quan; quản lý chương trình du lịch; phản ánh tới cơ quan chức năng...
Thẻ Việt - Thẻ du lịch thông minh: được phát triển với công nghệ hiện đại, an toàn, bảo mật, hỗ trợ khách du lịch giao dịch, thanh toán không dùng tiền mặt một cách an toàn, thuận tiện, nhanh chóng. Thẻ còn được tích hợp liên thông trên ứng dụng “Du lịch Việt Nam - Vietnam Travel”.
Ứng dụng “Quản trị và kinh doanh du lịch”: hỗ trợ doanh nghiệp cung cấp sản phẩm, dịch vụ du lịch kết nối với khách hàng, thiết lập điểm chấp nhận thanh toán trực tuyến, cung cấp sản phẩm, kết nối với cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực du lịch.
Hệ thống vé điện tử “Trực tuyến - Liên thông - Đa phương thức”: giúp kiểm soát tối ưu quy trình quản lý vận hành bán vé, soát vé; giảm tối đa thời gian chờ đợi của khách du lịch khi vào cửa; áp dụng phương thức 1 vé duy nhất cho cả đoàn đối với đoàn khách đông... Hiện nay, Việt Nam đã triển khai hệ thống vé điện tử tại nhiều điểm du lịch nổi tiếng, như Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Bảo tàng Lịch sử quốc gia, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh, đền Quán Thánh, Ngôi nhà di sản số 87 phố Mã Mây và Di tích số 22 phố Hàng Buồm...
Hệ thống thuyết minh đa phương tiện (Multi-media Guide): thiết kế áp dụng cho điểm du lịch, di tích, bảo tàng có nhu cầu thuyết minh, giới thiệu thông tin cho khách tham quan thông qua văn bản, giọng đọc, hình ảnh, video clip sinh động. Sản phẩm này được tích hợp trên ứng dụng “Du lịch Việt Nam - Vietnam Travel”.
Cùng với việc xây dựng nền tảng dùng chung, ngành du lịch đã ban hành tài liệu “Hướng dẫn Chuyển đổi số trong ngành du lịch” và triển khai nhiều lớp tập huấn hỗ trợ địa phương trên toàn quốc thực hiện chuyển đổi số. Đây là bước đi nhằm chuẩn hóa nội dung, hướng dẫn, quy trình thực hiện để địa phương, doanh nghiệp có thể nghiên cứu, áp dụng phát triển du lịch đồng bộ, hiệu quả.
Ngành du lịch Việt Nam còn đẩy mạnh truyền thông trên các trang web và mạng xã hội được nhiều người sử dụng, như Facebook, Zalo, Instagram, YouTube... Qua đó, thông tin, hình ảnh du lịch Việt Nam được lan tỏa ngày càng rộng rãi đến khách du lịch trong và ngoài nước. Chương trình truyền thông du lịch trên YouTube “Việt Nam: Đi để yêu!” do Cục Du lịch quốc gia Việt Nam, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch triển khai từ năm 2021 đã vinh dự đoạt giải Nhì (năm 2022) và giải Ba (năm 2024) tại Giải thưởng toàn quốc về Thông tin đối ngoại do Ban Tuyên giáo Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương) chủ trì, phối hợp.
Nhiều địa phương, doanh nghiệp đã tích cực triển khai chuyển đổi số trong ngành du lịch, như thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng, thành phố Huế, tỉnh Quảng Ninh... Đó là các điển hình về sự năng động, sáng tạo trong ứng dụng công nghệ hỗ trợ hoạt động du lịch, mang lại sản phẩm độc đáo, ấn tượng, tạo bước đột phá, nâng cao trải nghiệm cho khách du lịch trong nước và quốc tế, như áp dụng vé điện tử, thanh toán không dùng tiền mặt, số hóa điểm đến, áp dụng công nghệ thực tế ảo, thực tế tăng cường, 3D mapping, trình diễn ánh sáng, trình diễn thiết bị bay không người lái (drone)... Trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (big data) cũng ngày càng được ứng dụng sâu trong công tác quản lý, kinh doanh du lịch, tổ chức sự kiện, phân tích thị trường, quản lý khách hàng, tư vấn du lịch... Công nghệ tiết kiệm năng lượng, internet vạn vật (IoT) cũng ngày càng được áp dụng nhiều tại cơ sở lưu trú du lịch, giúp khách sạn tối ưu hóa hoạt động và mang lại trải nghiệm tiện ích hoàn toàn mới cho khách hàng.
Nỗ lực trên đã góp phần làm nên kết quả đáng ghi nhận của ngành du lịch. Năm 2024, khách quốc tế đến Việt Nam đạt gần 17,6 triệu lượt (tăng 39,5% so với năm 2023, đạt mức 98% so với năm 2019, thời điểm trước đại dịch COIVD-19), tương đương với mức phục hồi chung của du lịch toàn cầu và cao hơn đáng kể mức trung bình của khu vực châu Á - Thái Bình Dương (87%); khách du lịch nội địa đạt 110 triệu lượt. Tổng thu từ khách du lịch đạt khoảng 840 nghìn tỷ đồng, đóng góp tích cực vào tăng trưởng GDP cả nước. Sự phát triển của du lịch còn kéo theo sự tăng trưởng của nhiều ngành, lĩnh vực liên quan, như dịch vụ lưu trú, ăn uống, vận tải, logistics, bán lẻ, văn hóa, thủ công mỹ nghệ, bất động sản du lịch, nông nghiệp, thực phẩm, công nghệ thông tin và truyền thông, môi trường, năng lượng... Nhiều tổ chức quốc tế, hãng truyền thông toàn cầu, trang mạng tư vấn du lịch nổi tiếng, cộng đồng quốc tế đã yêu mến, tôn vinh du lịch Việt Nam với nhiều giải thưởng uy tín(1).
Đẩy mạnh chuyển đổi số trong ngành du lịch thời gian tới
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, ứng dụng công nghệ hiện đại là xu hướng tất yếu và là yêu cầu cấp thiết đối với ngành du lịch. Việc ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ cũng mang lại cơ hội phát triển rất lớn cho ngành du lịch, như:
Một là, chuyển đổi số giúp cá nhân hóa dịch vụ, mang lại trải nghiệm tiện lợi và hấp dẫn hơn cho khách du lịch với công nghệ mới; ứng dụng di động giúp khách du lịch dễ dàng tra cứu thông tin, đặt dịch vụ và thanh toán nhanh chóng, tiết kiệm thời gian.
Hai là, chuyển đổi số giúp doanh nghiệp du lịch tiếp cận khách hàng trên toàn thế giới thông qua các nền tảng trực tuyến, như mạng xã hội, trang web, ứng dụng di động; công cụ số giúp doanh nghiệp phân tích hành vi khách hàng, từ đó xây dựng chiến lược tiếp thị phù hợp.
Ba là, công nghệ số cho phép xây dựng mô hình du lịch thông minh, giúp quản lý hiệu quả tài nguyên và nâng cao chất lượng dịch vụ; phân tích nhu cầu, xu hướng du lịch để đưa ra dự báo chính xác và hoạch định chính sách phù hợp.
Bốn là, nền tảng công nghệ hiện đại giúp doanh nghiệp du lịch nâng cao hiệu quả quản lý, tối ưu hóa quy trình đặt phòng, đặt vé, kiểm soát dịch vụ và chăm sóc khách hàng; chuỗi khối (blockchain) có thể được áp dụng để tăng cường bảo mật thông tin, bảo đảm an toàn cho giao dịch trực tuyến.
Năm là, chuyển đổi số mang lại cơ hội phát triển du lịch theo hướng bền vững; thanh toán không dùng tiền mặt và hệ thống vé điện tử, công nghệ tiết kiệm năng lượng sẽ góp phần giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường; công nghệ giám sát môi trường và phân tích dữ liệu giúp kiểm soát lượng khách, hạn chế tình trạng quá tải, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và di tích văn hóa tại điểm du lịch.
Tuy nhiên, bên cạnh cơ hội, đẩy mạnh chuyển đổi số cũng đặt ra không ít thách thức cho ngành du lịch, như:
Một là, chi phí đầu tư lớn vào hạ tầng, công nghệ, trong khi đa số doanh nghiệp du lịch nước ta có quy mô nhỏ và vừa, hạn chế về tài chính, nhân lực, do vậy gặp khó khăn trong đầu tư thiết lập hạ tầng kỹ thuật, áp dụng giải pháp công nghệ hiện đại.
Hai là, thiếu hụt nguồn nhân lực số do chuyển đổi số đòi hỏi lực lượng lao động trong ngành du lịch có kỹ năng công nghệ cao. Thực tế, nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa có đủ đội ngũ nhân sự được đào tạo bài bản về công nghệ số, từ đó ảnh hưởng đến khả năng triển khai và vận hành một cách hiệu quả.
Ba là, cạnh tranh từ nền tảng trực tuyến xuyên biên giới với sự phát triển mạnh mẽ của nền tảng đặt phòng, đặt tour có thị phần lớn, khả năng tiếp cận khách hàng toàn cầu, cung cấp dịch vụ linh hoạt với giá cả cạnh tranh, như Booking, Agoda, Expedia, Tripadvisor, Airbnb...; tạo ra áp lực rất lớn đối với doanh nghiệp du lịch trong nước.
Bốn là, vấn đề bảo mật thông tin và an toàn dữ liệu gặp nhiều khó khăn khi nguy cơ bị tấn công mạng, đánh cắp thông tin khách hàng ngày càng gia tăng, doanh nghiệp có thể phải đối mặt với rủi ro pháp lý cũng như bị ảnh hưởng uy tín với khách hàng nếu không có biện pháp bảo mật
chặt chẽ.
Năm là, sự ra đời quá nhiều ứng dụng, trang web, trong số đó không ít ứng dụng không trực tiếp liên quan đến du lịch, gây khó khăn trong việc lựa chọn dịch vụ của khách du lịch.
Thời gian tới, để tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức, bắt kịp với xu thế của thời đại, thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, một số giải pháp chủ yếu sau cần được cân nhắc:
Thứ nhất, tiếp tục tạo thuận lợi về chính sách.
Nghiên cứu ban hành chính sách hỗ trợ tiếp cận giải pháp công nghệ đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa trong ngành du lịch; có chính sách ưu đãi về thuế, đất đai, tín dụng để huy động nguồn lực đầu tư tại cụm du lịch, khu vực động lực phát triển du lịch, khu du lịch quốc gia và khu vực có tiềm năng du lịch.
Thứ hai, xây dựng hệ sinh thái chuyển đổi số đồng bộ, thống nhất.
Việc xây dựng hệ sinh thái chuyển đổi số đồng bộ, thống nhất giúp tăng khả năng quản lý thống nhất, tiết kiệm nguồn lực, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong hoạt động du lịch, tạo thuận lợi tối đa cho khách du lịch trong nước và quốc tế. Đồng thời, do đặc thù du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, cần đẩy mạnh hợp tác với ngành, lĩnh vực liên quan, như thương mại, y tế, nông nghiệp, đường sắt, hàng không..., từ đó kết nối liên thông dữ liệu và nền tảng để du lịch thực sự “thông minh” và “kết nối”.
Thứ ba, ứng dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Việc nghiên cứu, ứng dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là yêu cầu cấp thiết nhằm bắt kịp với thế giới. Các thành tựu này đã và đang từng bước được áp dụng trong ngành du lịch Việt Nam, tuy nhiên yêu cầu đặt ra là cần chuyên sâu hơn, hiệu quả hơn. Đặc biệt, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, chuỗi khối mở ra cơ hội vô cùng lớn hỗ trợ ngành du lịch trong quản lý và vận hành kinh doanh, giúp tạo đột phá trong bảo mật thông tin, an toàn dữ liệu...
Thứ tư, đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực số.
Tăng cường đào tạo chuyên sâu về du lịch thông minh, ứng dụng công nghệ thông tin cho đội ngũ nhân lực của ngành du lịch. Tăng cường nội dung về ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số trong lĩnh vực du lịch vào chương trình giảng dạy người học tại cơ sở đào tạo chuyên ngành du lịch.
Thứ năm, tăng cường đầu tư cho chuyển đổi số.
Tiếp tục nghiên cứu, xây dựng đề án về chuyển đổi số, phát triển hệ sinh thái du lịch thông minh khả thi, hiệu quả, từ đó đề xuất cấp có thẩm quyền phê duyệt và bố trí kinh phí triển khai thực hiện.
Tăng cường hợp tác công - tư, huy động nguồn lực xã hội, nhất là hợp tác với doanh nghiệp có năng lực tốt về công nghệ để phát triển sản phẩm công nghệ số vừa phù hợp với nhu cầu du lịch, vừa đáp ứng yêu cầu quản trị hiện đại.
Thứ sáu, tăng cường hợp tác quốc tế.
Tăng cường hợp tác quốc tế trong chuyển đổi số trong lĩnh vực du lịch, học hỏi và vận dụng kiến thức, kinh nghiệm, giải pháp từ tập đoàn, tổ chức quốc tế, nhất là cập nhật thông tin về xu hướng thị trường, xu hướng công nghệ, giải pháp về áp dụng thành tựu mới về khoa học, công nghệ, mô hình vận hành, nguồn lực triển khai, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực...; góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, hướng đến sự phát triển bền vững, khẳng định vị thế của du lịch Việt Nam trên bản đồ du lịch khu vực và thế giới./.
---------------------
(1) Xem: Nguyễn Tấn Vinh - Võ Hữu Phước: “Phát triển kinh tế tuần hoàn: Kinh nghiệm của một số nước châu Âu và hàm ý chính sách đối với Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 13-11-2022, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/the-gioi-van-de-su-kien/-/2018/826257/phat-trien-kinh-te-tuan-hoan--kinh-nghiem-cua-mot-so-nuoc-chau-au-va-ham-y-chinh-sach-doi-voi-viet-nam.aspx
(2) Ví dụ: kinh tế tuần hoàn đã được nghiên cứu và thể chế hóa thành nhiều quy định đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp, như Quyết định số 622/QĐ-TTg, ngày 10-5-2017, của Thủ tướng Chính phủ, ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững, Quyết định số
889/QĐ-TTg, ngày 24-6-2020, của Thủ tướng Chính phủ, ban hành Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững giai đoạn 2021 - 2030, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020. Tại Khoản 11, Điều 5 đã quy định: “Lồng ghép, thúc đẩy các mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh trong xây dựng và thực hiện chiển lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án, dự án phát triển kinh tế - xã hội”
(3) Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ khóa X tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (nhiệm kỳ 2020 - 2025)
Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/1123902/nganh-du-lich-day-manh-chuyen-doi-so%2C-gop-phan-phat-trien-toan-dien%2C-nhanh-va-ben-vung.aspx
Bình luận (0)