Còn nhớ, Đài Truyền thanh - Truyền hình Cô Tô được thành lập từ năm 1996, trong bối cảnh huyện đảo Cô Tô còn nhiều khó khăn, không có điện, nước ngọt thiếu thốn, giao thông cách trở, cơ sở hạ tầng nghèo nàn, thiết bị kỹ thuật còn lạc hậu. Đài Truyền thanh - Truyền hình huyện gần như bắt đầu từ con số không. Những ngày đầu thành lập, Đài chỉ có duy nhất một trạm thu phát sóng phát thanh và truyền hình, chủ yếu là phát chuyển tiếp các chương trình của Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Phát thanh - Truyền hình Quảng Ninh, chưa có khả năng tự sản xuất chương trình địa phương.
Khó khăn lớn nữa là đội ngũ cán bộ, phóng viên không có. Số có mặt không ai có nghiệp vụ về báo chí. Cũng bởi vậy, một trong những công việc Đài quan tâm đầu tiên là ổn định tổ chức bộ máy, tập trung bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, phóng viên, kỹ thuật viên và đầu tư trang thiết bị. Những chương trình phát thanh và truyền hình đầu tiên do Đài Truyền thanh - Truyền hình huyện Cô Tô tự sản xuất đã ra đời, đánh dấu bước phát triển mới của công tác tuyên truyền ở huyện đảo.
Tháng 8/2005, khi tôi được giao nhiệm vụ làm Trưởng đài Truyền thanh - Truyền hình huyện, bộ máy tổ chức còn rất sơ khai, vẻn vẹn chỉ có 4 cán bộ, nhân viên, chưa qua đào tạo chuyên môn về báo chí, phát thanh - truyền hình. Cơ sở vật chất thiếu thốn, chưa có một hệ thống truyền thanh đồng bộ trên toàn huyện, thiết bị ghi hình, dựng phim không có, chỉ duy nhất một trạm chuyển tiếp sóng phát thanh – truyền hình gồm 1 máy phát thanh, 2 máy thu phát hình, 1 máy phát điện Trung Quốc, 1 radio, 1 camera M9000; hệ thống truyền thanh gồm 4 cụm loa ở trung tâm thị trấn đã xuống cấp. Đội ngũ cán bộ chưa qua đào tạo chuyên môn về báo chí, phát thanh - truyền hình.
Giữa muôn vàn khó khăn, lúc đó tôi đã xác định, nếu không bắt đầu bằng việc tổ chức lại bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ thì không thể làm được gì. Vì vậy, việc đầu tiên tôi làm là xây dựng quy chế làm việc, phân công rõ ràng nhiệm vụ cho từng thành viên và từng bước đưa công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn vào nền nếp.
Khác với các đơn vị khác trong đất liền, ở Cô Tô thời điểm đó, việc tiếp cận tài liệu, giảng viên chuyên ngành là vô cùng hạn chế. Chúng tôi phải chủ động tìm kiếm các chương trình bồi dưỡng ngắn hạn, tranh thủ các lớp tập huấn của tỉnh, của ngành và cả sự giúp đỡ của các nhà báo, kỹ thuật viên có kinh nghiệm từ Báo Quảng Ninh, Đài Phát thanh - Truyền hình Quảng Ninh và tự học là chính.
Tôi chọn Báo Quảng Ninh để anh em học hỏi, động viên anh chị em viết tin, bài gửi báo Quảng Ninh. Như các đồng chí biết Cô Tô thời kỳ đó rất khó khăn, cơ quan không có máy tính, máy photocopy nên tin bài gửi về đăng báo chủ yếu viết tay rồi chép lại một bản để đối chiếu với bài được đăng trên báo, từ đó so sánh giữa bản thảo của mình để xem báo biên tập bài viết của mình như thế nào, sau đó rút kinh nghiệm. Cách làm này cho thấy rất hiệu quả. Mỗi lần phóng viên nhận được báo biếu hay nhuận bút, tôi thấy rõ trên khuôn mặt họ rạng rỡ, không giấu nổi niềm tự hào, hãnh diện.
Những kỷ niệm tôi không bao giờ quên đó là có nhiều buổi tối anh em phóng viên, bụng thì đói nhưng không ai về mà tất cả đều ngồi bên máy tính để cùng nhau chỉnh sửa từng câu chữ, từng khung hình, với hy vọng có được sản phẩm tốt nhất để phục vụ cấp uỷ, chính quyền và nhân dân.
Tôi nhớ một lần khi biết tin nhà báo Uông Ngọc Dậu, Giám đốc cùng Ban Thời sự VOV1 ra Cô Tô du lịch, tôi đã tìm đến mời đoàn về Đài, đặt vấn đề về hướng dẫn cách làm phát thanh trực tiếp. Đoàn đã trao đổi và hướng dẫn chúng tôi theo cách cầm tay chỉ việc để phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật viên của chúng tôi nắm được phương pháp, kỹ năng sản xuất chương trình phát thanh trực tiếp. Ngay hôm đó, VOV đã sản xuất 1 chương trình phát thanh trực tiếp về “Biển đảo Việt Nam” để cán bộ, phóng viên của chúng tôi được trực tiếp tham gia.
Với tinh thần “vừa học, vừa làm”, cuối năm 2005, chúng tôi bắt tay sản xuất những chương trình truyền thanh đầu tiên, mang đậm hơi thở của Cô Tô. Từ có 2 bản tin rồi lên 3 bản tin/tuần đến sản xuất bản tin hằng ngày có thời lượng từ 20-25 phút. Ngoài đội ngũ phóng viên ít ỏi của đài, chúng tôi đã mời những cán bộ, những sĩ quan có khả năng để tham gia làm cộng tác viên. Nội dung chương trình ngày càng phong phú, ngoài tin hoạt động hằng ngày của lãnh đạo huyện, đến các bài viết phản ánh đời sống nhân dân, chúng tôi còn xây dựng các chuyên mục “Xây dựng Đảng”, “Người tốt - Việc tốt”, “Pháp luật và đời sống”…
Năm 2006, tôi đề xuất với lãnh đạo huyện và tranh thủ chương trình mục tiêu từ Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh để được đầu tư trang thiết bị, như: Camera, máy tính dựng hình, máy ghi âm, bàn ghế, trụ sở làm việc, hệ thống điện năng lượng mặt trời, đồng thời nâng cấp công suất máy phát thanh FM lên 300W, máy thu phát hình UHF và VHF công suất 500W để nâng tầm phủ sóng rộng hơn, những thiết bị trên so với đài cấp huyện thời điểm đó là rất hiện đại.
Chúng tôi chính thức đã sản xuất được chương trình truyền hình đầu tiên đúng đêm Giao thừa Tết Nguyên đán năm 2006, sau đó sản xuất mỗi tháng một chương trình truyền hình, đến năm 2007 tăng lên 2 chương trình truyền hình/tháng. Đây là dấu mốc quan trọng, khẳng định sự trưởng thành của đội ngũ phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật viên của Đài. Các chương trình truyền hình của huyện đã đến với đông đảo khán giả cả trong và ngoài huyện.
Không chỉ dừng lại ở việc tự sản xuất, từ những năm 2006 đội ngũ phóng viên, kỹ thuật viên của Đài còn nỗ lực tham gia cộng tác viên với nhiều báo, nhiều phóng viên đã được các báo tặng giấy khen. Phóng viên của Đài còn tích cực tham gia liên hoan phát thanh - truyền hình cấp tỉnh, cấp Trung ương bằng tất cả các thể loại báo nói, báo hình như phóng sự ngắn, phóng sự dài, câu chuyện truyền thanh, chương trình phát thanh trực tiếp… đã đoạt được nhiều giải vàng, giải bạc, có năm tham gia Liên hoan phát thanh - truyền hình tỉnh, Đài Cô Tô đạt giải nhất toàn đoàn, qua đó từng bước khẳng định trình độ của phóng viên, khẳng định vị trí và chất lượng tuyên truyền của Đài Cô Tô trong hệ thống báo chí, phát thanh - truyền hình của tỉnh Quảng Ninh. Trong giai đoạn đó đã có những tên tuổi được bạn bè đồng nghiệp trong và ngoài tỉnh biết tên và ngưỡng mộ, như: Thế Cường, Công Quý, Thu Hằng, nay có phóng viên Thu Báu, Huệ Phương và một số phóng viên khác.
Đặc biệt, trong những sự kiện chính trị lớn của địa phương và đất nước, đội ngũ kỹ thuật viên đã khắc phục khó khăn về trang thiết bị, địa hình, thời tiết để tổ chức truyền thanh - phát thanh trực tiếp các sự kiện chính trị lớn của huyện. Một kỷ niệm đáng nhớ, đó là lần đầu tiên Đài thực hiện tường thuật trực tiếp cuộc bầu cử Quốc hội nhiệm kỳ 2007-2011 trong bối cảnh phương tiện tác nghiệp thiếu thốn. Chương trình được phát trên hệ thống phát thanh của huyện, tạo dấu ấn sâu đậm trong lòng cử tri và nhân dân, tạo sự bất ngờ đối với lãnh đạo huyện lúc bấy giờ.
Một điểm đặc biệt đáng trân trọng là hiện nay dù 100% đội ngũ phóng viên là nữ giới, nhưng chị em không hề e ngại khó khăn, gian khổ. Trái lại, họ rất “thiện chiến”, xông pha, dấn thân trong sự kiện, trong các cuộc tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, diễn tập quốc phòng - an ninh và phát triển du lịch biển đảo… Hình ảnh những nữ phóng viên vác máy quay, máy ghi âm, sổ, bút, bám địa bàn đi trong bão tố làm tin đã trở thành biểu tượng đẹp của người làm báo nơi đầu sóng ngọn gió. Có người ốm vẫn xung phong đi làm, người có con nhỏ không ai trông nhưng vẫn đưa con đến cơ quan làm việc đến 11-12h đêm mới về. Với lòng tâm huyết và trách nhiệm, họ vẫn say sưa không rời vị trí để kịp có những bài viết, những thước phim hay phục vụ nhiệm vụ chính trị, phục vụ nhân dân.
Nhìn lại quá trình 29 năm phát triển của Đài Truyền thanh - Truyền hình Cô Tô thì giai đoạn 2005-2010, là thời kỳ đặt nền móng quan trọng cho sự phát triển của Đài Truyền thanh - Truyền hình huyện Cô Tô (nay là Trung tâm Truyền thông - Văn hoá Cô Tô). Từ con số không, chúng tôi đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ có chuyên môn, từng bước hiện đại hóa cơ sở vật chất, thiết lập quy trình làm việc chuyên nghiệp và sản xuất được các chương trình có chất lượng. Đó là nền tảng để các thế hệ kế cận tiếp tục kế thừa, đổi mới, bắt kịp với sự phát triển của báo chí, truyền thông trong thời kỳ công nghệ số.
Nguồn: https://baoquangninh.vn/nho-mot-thoi-gian-kho-3363296.html
Bình luận (0)