
Trong giai đoạn tới đây, để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ theo tinh thần Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị, cần xuất phát từ thực trạng hiện nay và có các chính sách thích hợp cho các loại hình doanh nghiệp.
Sự yếu kém của khu vực kinh tế tư nhân
Năm 2023, lao động làm việc trong khu vực ngoài nhà nước chiếm tới 82% tổng lao động có việc làm. Trừ nông nghiệp, còn lại 55% lao động có thể được xem là khu vực kinh tế tư nhân trong công nghiệp và dịch vụ. Về số lượng doanh nghiệp trong khu vưc kinh tế tư nhân, vào năm 2023, có tất cả gần 74 vạn doanh nghiệp trong đó hơn 49 vạn là siêu nhỏ và gần 20 vạn là doanh nghiệp nhỏ. Ngoài ra còn có khoảng 5 triệu hộ kinh doanh cá thể.
Vì manh mún, nhỏ bé và cho đến nay trực diện nhiều thủ tục hành chánh nhiêu khê, đại bộ phận các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) và siêu nhỏ phần lớn không có năng lực cạnh tranh, không tham gia các chuỗi giá trị hay chuỗi cung ứng toàn cầu mặc dù nền kinh tế Việt Nam hội nhập rất sâu rộng vào kinh tế thế giới.
Trong số 74 vạn doanh nghiệp ở khu vực kinh tế tư nhân có khoảng 30% tức là khoảng 20 vạn doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực trong công nghiệp. Nhưng trong số đó mới chỉ có gần 3.400 doanh nghiệp (chưa tới 2%) tham gia sản xuất ngành công nghiệp hỗ trợ.
Với quy mô quá nhỏ, doanh nghiệp không thể đầu tư đủ lớn để đổi mới công nghệ nên ít hoặc không có khả năng tham gia các chuỗi giá trị toàn cầu (GVC) của các công ty đa quốc gia hoặc các công ty FDI tại Việt Nam. Theo tư liệu của Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ tham gia GVC của doanh nghiệp Việt Nam có khuynh hướng giảm và vào năm 2023 còn thấp hơn cả Campuchia.
So sánh năng suất lao động của ba khu vực phân theo hình thái sở hữu ta thấy khu vực ngoài nhà nước năng suất rất thấp, thấp hơn nhiều so với khu vực nhà nước và FDI. Chênh lệch này càng ngày càng mở rộng.
Chính sách đối với khu vực kinh tế tư nhân
Ngoài một số doanh nghiệp lớn, khu vực kinh tế tư nhân chủ yếu gồm một bộ phận là phi chính thức (cá thể, hộ gia đình,...) và phần lớn là SME và doanh nghiệp siêu nhỏ. Giải quyết vấn đề của khu vực này sẽ làm năng suất của nền kinh tế tăng nhanh. Rất mừng là gần đây lãnh đạo Việt Nam đã chủ trương phải xem khu vực kinh tế tư nhân là động lực phát triển chính trong thời gian tới.
Từ thực trạng Việt Nam và tham khảo kinh nghiệm các nước Đông Á, dưới đây là các khuyến nghị chính sách về 3 nhóm cấu thành của khu vực kinh tế tư nhân.
1. Chính sách đối với doanh nghiệp lớn:
Nhà nước đã có chủ trương tạo điều kiện để doanh nghiệp lớn tham gia các dự án đầu tư công. Đây là chính sách đúng đắn. Ngoài ra, tôi muốn đề khởi thêm vài chính sách sau:
Chia sẻ tầm nhìn, hướng đi tương lai dài hạn về kinh tế giữa nhà nước và doanh nghiệp. Đảng, nhà nước lập các ủy ban nghiên cứu, bàn bạc về tầm nhìn, về hướng đi trong đó có sự tham gia của đại diện các doanh nghiệp lớn và các học giả, nhà nghiên cứu độc lập.
Bên cạnh đó, cùng với doanh nghiệp tư nhân đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu công nghệ và đổi mới sáng tạo. Chẳng hạn nhà nước lập các dự án nghiên cứu hỗn hợp với sự tham gia của các doanh nghiệp lớn. Các doanh nghiệp tham gia có thể dùng kết quả nghiên cứu từ các dự án này để triển khai nghiên cứu ứng dụng và bắt đầu các khởi nghiệp mới. Ngoài ra, nhà nước nên có chính sách ưu đãi về thuế để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho nghiên cứu và triển khai (R&D).
Song song, nhà nước nên có chính sách kết nối doanh nghiệp lớn với SME qua hoạt động đổi mới sáng tạo. Qua cơ chế thị trường, doanh nghiệp lớn có động cơ chuyển giao công nghệ, phương pháp quản lý kinh doanh cho SME để SME cung cấp cho họ các sản phẩm trung gian với phí tổn thấp và chất lượng cao. Tuy nhiên trong trường hợp doanh nghiệp lớn hỗ trợ SME khởi nghiệp hoặc bắt đầu một đổi mới sáng tạo có thể có nhiều rủi ro, chính phủ cần có chính sách hỗ trợ về thuế cho những trường hợp này.
2. Chính sách đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME):
Thị trường vốn ở Việt Nam phát triển từng bước từ thập niên 1990 nhưng còn nhiều dư địa để cải cách hơn nữa. Đặc biệt, SME vẫn ở trạng thái bất lợi trong việc tiếp cận với vốn đầu tư. Mặc dù chính phủ có lập ngân hàng chuyên cho SME nhưng hầu như ít cho vay vì sợ trách nhiệm không thu hồi vốn cho những dự án vay không có thế chấp. Ngoài ra SME không được hỗ trợ về những mặt khác và thủ tục hành chính vẫn rất khó khăn.
Có thể tham khảo kinh nghiệm Nhật Bản về các chính sách SME. Một là, ngân hàng hay quỹ dành riêng cho SME nên có nhiều chuyên viên có năng lực thẩm định các dự án đầu tư và có một bộ phận tư vấn giúp SME tăng tính khả thi của các dự án. Hai là, nên lập một chế độ cung cấp chứng chỉ cho các nhà tư vấn chuyên về SME để khuyến khích ra đời những chuyên gia tư vấn cho SME nhằm cải thiện quản lý, lập dự án đầu tư cũng như giúp họ soạn thảo đơn xin vay vốn. Ba là, cơ quan phụ trách quản lý SME của chính phủ cần có chức năng điều tra nghiên cứu về SME, về định hướng thị trường và công nghệ thế giới, hằng tháng phát hành bản tin và hằng năm phát hành Sách trắng Doanh nghiệp Nhỏ và Vừa để SME tham khảo về các chính sách mới, hướng dẫn làm các thủ tục cần thiết, đồng thời tham khảo về tình hình thị trường và công nghệ.
Chính phủ nên lập một Ban đặc trách theo dõi hiệu quả của các chính sách nói trên. Trong quá trình đó Ban đặc trách tuyển chọn một danh sách những SME mạnh để trở thành đối tác của các doanh nghiệp lớn và FDI. Danh sách này ngày càng dài càng chứng tỏ sự thành công của chính sách SME.

3. Chính sách đối với khu vực cá thể, phi chính thức:
Theo Luật Doanh nghiệp 2014, doanh nghiệp hộ gia đình là đơn vị kinh doanh có ít hơn 10 lao động, chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh bằng tài sản riêng của mình. Cuối năm 2019, Việt Nam có gần 5,4 triệu cơ sở sản xuất hộ gia đình ngoài nông nghiệp, thu hút gần 9,1 triệu lao động. Trung bình mỗi đơn vị sản xuất cá thể ngoài nông nghiệp này chỉ thuê 1,7 lao động.
Quy mô nhỏ như vậy không cho phép doanh nghiệp cá thể sử dụng công nghệ và đầu tư vào những lĩnh vực có năng suất cao hơn. Những đơn vị cá thể có bản chất gia đình này còn gặp phải các rào cản về hành chính và bất lợi trong việc tiếp cận với vốn và đất đai để đầu tư. Để tăng năng suất cho toàn nền kinh tế, cần chuyển những đơn vị sản xuất cá thể thành những công ty chính thức. Trên thực tế, Chính phủ đã đưa ra một số chính sách cho mục đích đó. Tuy nhiên cho đến nay mục tiêu ấy chưa đạt được.
Chẳng hạn, Quyết định số 35/NQ-CP của Chính phủ (ban hành tháng 5/2016) nhắm đến việc cho ra đời nhiều công ty mới để cả nước có một triệu doanh nghiệp vào năm 2020 và 1,5 triệu vào năm 2030 (số lượng doanh nghiệp vào năm 2015 là 442.485). Nhưng kết quả cho thấy vào tháng 12/2020 tổng số doanh nghiệp chỉ có 811.535.
Có ít nhất hai vấn đề gây khó khăn cho việc chuyển đổi các đơn vị sản xuất cá thể thành doanh nghiệp có tổ chức. Thứ nhất, thủ tục chuyển đổi rất phức tạp và hầu hết đơn vị sản xuất cá thể không đủ nguồn lực để chuẩn bị cho việc xin chuyển đổi. Thứ hai, nhiều đơn vị sản xuất cá thể lo ngại khả năng sẽ phải đóng thuế nhiều hơn khi trở thành doanh nghiệp chính thức vì áp dụng hệ thống kế toán hiện đại, minh bạch hơn. Họ thường thương lượng với quan chức địa phương để đóng thuế ít hơn.
Để giải quyết những vấn đề trên cần các chính sách sau: Một là, đơn giản hóa thủ tục hành chính và hướng dẫn quan chức địa phương triệt để thi hành chính sách chuyển đổi đơn vị sản xuất cá thể sang doanh nghiệp chính thức. Hai là, thuyết phục các đơn vị sản xuất cá thể về những lợi ích khi trở thành doanh nghiệp có tổ chức, và những lợi ích sẽ lớn hơn khoản thuế có thể phải đóng thêm. Ba là, miễn thuế hai hoặc ba năm đối với các đơn vị cá thể chuyển thành doanh nghiệp.
Các chính sách thúc đẩy sự chuyển dịch các đơn vị sản xuất phi chính thức sang doanh nghiệp có tổ chức sẽ giúp bắt đầu một quá trình phá hủy có tính sáng tạo. Một số đơn vị cá thể sẽ thuê thêm lao động, vay thêm vốn để mở rộng sản xuất nhờ tiếp cận được với vốn và các chính sách hỗ trợ. Một số khác sáp nhập với các doanh nghiệp cá thể khác và trở thành SME. Cuối cùng, một số sẽ tự giải tán và những lao động liên quan sẽ tìm việc làm mới, nhất là việc làm tại các công ty mới xuất hiện trong quá trình phân hóa.
Những doanh nghiệp nhắm đến các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, năng suất lao động cao phải đầu tư lớn, thường dùng công nghệ có hàm lượng vốn cao. Họ phải là những doanh nghiệp đủ lớn, không thể là những doanh nghiệp siêu nhỏ hay những đơn vị sản xuất cá thể. Với sự phá hủy sáng tạo nói trên, ngày càng có nhiều doanh nghiệp có quy mô lớn dù vẫn là SME. Với sự lớn mạnh cùng với hỗ trợ từ chính sách, số lượng SME có thể tham gia chuỗi cung ứng (GSC) và GVC của doanh nghiệp FDI sẽ ngày càng tăng. Cần nhấn mạnh là các đơn vị cá thể và doanh nghiệp nhỏ trở thành doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp vừa trở thành doanh nghiệp lớn mới có thể đầu tư lớn hơn, vào những lĩnh vực có hàm lượng lao động kỹ năng cao hơn để vừa cạnh tranh được với FDI vừa có thể kết nối với FDI trong các GSC và GVC.
Chính phủ nên lập ra một Ban đặc trách cho việc chuyển đổi các đơn vị cá thể, các thành phần trong khu vực phi chính thức trở thành các doanh nghiệp. Ban đặc trách này nên đưa ra mục tiêu đạt số lượng doanh nghiệp mới trong từng 6 tháng và báo cáo với Thủ tướng Chính phủ.
Nguồn: https://baodanang.vn/phat-trien-kinh-te-tu-nhan-trong-giai-doan-toi-3303275.html
Bình luận (0)