Điểm nhấn các vở diễn danh nhân
Ví, giặm - 2 làn điệu tiêu biểu của Dân ca Nghệ Tĩnh vốn chứa đựng khả năng trữ tình, tự sự và đối đáp linh hoạt. Chúng có thể vừa diễn tả tình cảm cá nhân, vừa mang đậm hơi thở cộng đồng. Chính tính chất “cấu trúc mở” của dân ca đã tạo điều kiện để các thế hệ nghệ nhân, nhạc sĩ và nhà nghiên cứu từng bước thử nghiệm đưa chất liệu này lên sân khấu.
Đầu thập niên 1970, trong phong trào văn nghệ quần chúng, những vở kịch ngắn như Trước lúc lên đường, Hỏi ai quan trọng… ra đời, bước đầu “thử sức” sân khấu hóa dân ca. Năm 1973, Đoàn Dân ca Nghệ An được thành lập, mở ra thời kỳ mới cho quá trình thể nghiệm. Một bước ngoặt quan trọng là sự ra đời của làn điệu cải biên Giận mà thương (Nguyễn Trung Phong), vừa gần gũi dân gian, vừa giàu sức truyền cảm, chứng minh khả năng sáng tạo vô tận của ví, giặm khi bước vào sân khấu.
Từ đây, nhiều vở diễn lớn ra đời, vừa phục vụ nhiệm vụ chính trị, vừa nâng cao đời sống tinh thần nhân dân. Có thể kể đến Cô gái Sông Lam (ca ngợi phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh), Hoa đất, Đốm lửa núi Hồng… Trong đó, vở Mai Thúc Loan (Phan Lương Hảo) đánh dấu đỉnh cao giai đoạn đầu khi giành Huy chương Vàng tại Hội diễn Sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc năm 1985. Đây là minh chứng cho khả năng kết hợp giữa đề tài lịch sử và nghệ thuật dân ca, mở ra hướng phát triển bền vững cho kịch hát Nghệ Tĩnh. Đặc biệt, theo NSND Hồng Lựu, chính chủ trương sân khấu hóa dân ca không chỉ bảo tồn được giá trị truyền thống mà còn tạo ra một “kịch chủng” mới - kịch hát dân ca Nghệ Tĩnh vừa mang tính cách mạng, vừa giàu bản sắc văn hóa địa phương.
Nếu giai đoạn đầu tập trung vào đề tài lịch sử, phong trào cách mạng và hiện thực đời sống, thì từ thập niên 1990 đến nay, sân khấu kịch hát Dân ca Nghệ Tĩnh ngày càng khẳng định vị thế bằng loạt tác phẩm ca ngợi danh nhân văn hóa, chính trị của dân tộc. Tiêu biểu có Danh nhân lớn lên từ câu hò, điệu ví (Vũ Hải) - tác phẩm khắc họa hình ảnh lãnh tụ qua sự "nuôi dưỡng" của văn hóa dân gian, đoạt giải Xuất sắc tại Liên hoan Sân khấu dân ca toàn quốc năm 1999. Đây là minh chứng rõ rệt cho cách mà kịch hát Nghệ Tĩnh gắn kết văn hóa dân gian với chân dung danh nhân.

Bên cạnh đó, nhiều tác phẩm lớn về các nhân vật lịch sử, văn hóa được dàn dựng công phu như: Phan Bội Châu - tái hiện chí sĩ yêu nước, nhà tư tưởng lớn của thế kỷ XX; Thái sư Cương Quốc Công Nguyễn Xí - danh tướng xứ Nghệ thời Lê sơ; Dòng lệ Tố Như - tri ân Nguyễn Du, Đại thi hào dân tộc; Lời Người lời của nước non, Sáng mãi niềm tin - ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh; Hoa lửa Truông Bồn, Hừng Đông - khắc họa các anh hùng, liệt sĩ và sự kiện cách mạng. Mỗi vở diễn là một “chương sử thi bằng sân khấu”, tái hiện khí phách, trí tuệ và nhân cách của những con người làm rạng danh dân tộc.
Không chỉ dừng ở việc ca ngợi, các tác phẩm còn gửi gắm thông điệp nhân văn: Tinh thần yêu nước, khát vọng độc lập, trách nhiệm xã hội. Đặc biệt, nhiều vở diễn mang tính chính luận như Người thi hành án tử, Đường đua trong bóng tối, Sóng dậy một vùng quê… cho thấy sân khấu cách mạng Nghệ An luôn đồng hành cùng các vấn đề thời sự, đấu tranh chống tiêu cực, hướng tới giá trị Chân - Thiện - Mỹ.
Kết nối truyền thống và hiện đại
Nửa thế kỷ qua, sân khấu cách mạng Nghệ An đã trải qua nhiều biến động, nhưng vẫn giữ được sức sống mạnh mẽ. Các thế hệ nghệ sĩ, từ Nguyễn Trung Phong, Phan Lương Hảo, Vũ Hải, Lưu Quang Vũ đến NSND Hồng Lựu… đã nối tiếp nhau sáng tạo, đưa kịch hát Nghệ Tĩnh vượt khỏi phạm vi địa phương để khẳng định vị thế trên bản đồ sân khấu Việt Nam.

Có thể nói, các vở diễn về danh nhân văn hóa chính là sự kết tinh đẹp nhất của sân khấu cách mạng Nghệ An: Vừa gắn bó với cội nguồn dân ca, vừa lan tỏa giá trị lịch sử, vừa mở ra không gian nghệ thuật hiện đại. Những tác phẩm ấy không chỉ để xem, để nhớ, mà còn để suy ngẫm về trách nhiệm hôm nay trong việc giữ gìn bản sắc và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
11 năm sau khi UNESCO vinh danh Dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại (2014 - 2025), sân khấu kịch hát Dân ca ví, giặm đã có những bước tiến đáng kể, vừa gìn giữ giá trị truyền thống, vừa mạnh dạn đổi mới để bắt kịp hơi thở của thời đại.
.jpg)
Tại Nghệ An, hơn 130 câu lạc bộ dân ca, với gần 2.000 nghệ nhân đang hoạt động thường xuyên, trở thành lực lượng nòng cốt giữ gìn “hồn cốt xứ Nghệ”. Song song đó, các đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp cũng từng bước được kiện toàn: từ Đoàn Kịch hát dân ca Nghệ An, nay phát triển thành Trung tâm Nghệ thuật truyền thống tỉnh Nghệ An - nơi trực tiếp thử nghiệm và dàn dựng nhiều vở kịch hát dân ca. “Đáng chú ý, năm 2023, Hội thảo Khoa học “Kịch hát Nghệ Tĩnh - Xu thế hội nhập và phát triển” quy tụ hơn 40 tham luận đã khẳng định vị trí của kịch hát Dân ca ví, giặm trong "gia đình" sân khấu truyền thống Việt Nam, bên cạnh chèo, tuồng, cải lương...”, NSND Hồng Lựu cho biết.
Dẫu đạt nhiều thành tựu, sân khấu Dân ca ví, giặm vẫn đứng trước không ít thách thức. Lực lượng diễn viên ngày càng thiếu hụt và “già hóa”, trong khi chưa có cơ sở đào tạo chuyên nghiệp nào từ trình độ cao đẳng trở lên. Kịch bản mới còn khan hiếm, khán giả trẻ ít quan tâm, đặc biệt là sự cạnh tranh của các loại hình giải trí hiện đại trên nền tảng số.
Trong bối cảnh đó, việc sân khấu hóa Dân ca ví, giặm không chỉ là bảo tồn, mà còn là con đường tất yếu để kết nối di sản với đời sống đương đại. Việc áp dụng công nghệ, quảng bá trên nền tảng số, đồng thời, đổi mới cách dàn dựng, thể nghiệm kết hợp âm nhạc - ánh sáng - hình ảnh hiện đại, sẽ giúp Dân ca ví, giặm gần gũi hơn với công chúng hôm nay.
Những nghệ sĩ, nghệ nhân, nhà quản lý văn hóa đều chung nhận định: Muốn giữ Dân ca ví, giặm sống mãi, cần song song 2 hướng - đào tạo, trẻ hóa lực lượng kế cận và sáng tạo các tác phẩm mới gắn với hơi thở cuộc sống. Đó cũng chính là cách để Dân ca ví, giặm không chỉ là di sản được trân trọng trong quá khứ, mà còn là nghệ thuật đồng hành cùng hiện tại và hướng tới tương lai.
Nguồn: https://baonghean.vn/suc-song-manh-me-cua-san-khau-cach-mang-nghe-an-10305997.html
Bình luận (0)