Thực trạng quá trình nâng cao năng lực sản xuất hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam
Thời gian qua, việc nâng cao năng lực sản xuất hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam thu được những kết quả đáng ghi nhận, gồm:
Một là, theo Tổng cục thống kê, số lượng hàng hóa xuất khẩu có sự thay đổi tích cực khi tăng từ 773 mặt hàng theo Hệ thống mã hóa và mô tả hàng hóa hài hòa (Harmonized Commodity Description and Coding System - HS4) năm 1995 lên 1.173 mặt hàng năm 2023. Cũng trong thời kỳ 1995 - 2024, giá trị xuất khẩu hàng hóa tăng gần 75 lần từ 5,45 tỷ USD lên 405,53 tỷ USD.
Hai là, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu có sự chuyển biến tích cực theo hướng ngày càng đa dạng và hiện đại hơn. Giai đoạn trước năm 2010, cơ cấu hàng hóa giảm mạnh tỷ trọng hàng nông sản và khoáng sản, như rau củ, dầu thô và tăng dần hàng hóa thâm dụng lao động, như dệt may, giày dép, mũ. Giai đoạn từ năm 2010 trở lại đây, hàng hóa có hàm lượng khoa học, công nghệ cao, như thiết bị phát sóng, máy tính, điện thoại và vi mạch điện tử chiếm tỷ trọng lớn nhất và vẫn tiếp tục thể hiện xu hướng gia tăng.
Ba là, hình thành các nhóm ngành sản xuất hàng hóa xuất khẩu có giá trị lớn tại các khu công nghiệp có quy mô, có tính tương đồng về năng lực sản xuất nhờ sự tập trung lượng lớn vốn, lao động và công nghệ.
Bên cạnh những đặc điểm tích cực kể trên thì sản xuất hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam còn gặp những mặt hạn chế và thách thức như sau:
Một là, không gian hàng hóa xuất khẩu phản ánh sự thay đổi mang tính cấu trúc từ một nền kinh tế có trình độ sản xuất thấp, thiếu đa dạng từ thế kỷ trước sang một nền kinh tế có trình độ sản xuất ở mức trung bình, đa dạng hơn nhưng vẫn còn ở khoảng cách khá xa với không gian hàng hóa xuất khẩu của các nền kinh tế tiên tiến, có mức thu nhập cao.
Hai là, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu vẫn chủ yếu dựa nhiều vào số lượng chứ chưa tập trung vào chất lượng. Hàm lượng giá trị gia tăng thuộc về nội địa trong hàng hóa xuất khẩu chiếm tỷ trọng chưa cao và chậm được cải thiện do chủ yếu phụ thuộc vào chi phí lao động giá rẻ và nguyên liệu, máy móc nhập khẩu. Tỷ trọng giá trị gia tăng tương đối thấp này không đủ để tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bền vững và giúp gia tăng thu nhập của người lao động để đạt tới trình độ của các nền kinh tế có mức thu nhập cao.
Ba là, hoạt động sản xuất hàng hóa xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các doanh nghiệp mà các nhà đầu tư nước ngoài có trên 50% vốn góp tại các chi nhánh, công ty con (đóng góp tới gần 80% giá trị xuất khẩu hàng hóa). Các doanh nghiệp này chủ yếu gia công theo đơn đặt hàng từ công ty mẹ với kênh cung ứng và phân phối kèm theo, khiến cho giá trị lan tỏa ra khu vực nội địa tương đối thấp. Hoạt động sản xuất trong nước ngày càng phụ thuộc nhiều vào các doanh nghiệp này để duy trì tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu, việc làm và tăng trưởng kinh tế.
Bốn là, chi phí lao động tiếp tục tăng và tốc độ tăng nhanh hơn tốc độ tăng năng suất lao động. Nguồn cung lao động nội địa có chất lượng cao chưa đáp ứng nhu cầu cho chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tạo thành rào cản đối với quá trình nâng cấp năng lực sản xuất sang sản xuất các hàng hóa xuất khẩu có hàm lượng khoa học, công nghệ cao và mang lại giá trị gia tăng lớn hơn.
Năm là, hạ tầng năng lượng và giao thông vận tải cho hoạt động sản xuất hàng hóa xuất khẩu còn nhiều điểm nghẽn và tác động ngày một lớn hơn tới môi trường. Hạ tầng sản xuất công nghiệp nói chung và cho hoạt động sản xuất hàng hóa xuất khẩu chịu rủi ro từ biến động khí hậu. Hạ tầng đô thị, đặc biệt là nhà ở xã hội chưa đáp ứng được với nhu cầu phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất và đang tạo ra tình trạng quá tải tại các đô thị.
Phân tích hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong gần bốn thập kỷ vừa qua cho thấy sự tiến triển cả về lượng lẫn về chất từ một quốc gia chủ yếu xuất khẩu tài nguyên, sản phẩm thô sang một cơ cấu sản xuất và xuất khẩu đa dạng hơn với các sản phẩm thuộc ngành công nghiệp chế biến chế tạo. Từ một nền kinh tế lạc hậu với năng lực sản xuất hạn chế, Việt Nam đã tích lũy được năng lực sản xuất mới và hiện đại hơn đáng kể, từ đó sản xuất ra được các hàng hóa có mức độ tinh vi hơn, có giá trị xuất khẩu lớn hơn. Hoạt động sản xuất hàng hóa xuất khẩu không chỉ giúp nền kinh tế tăng trưởng, thu hút vốn đầu tư nước ngoài và tích lũy ngoại tệ mà còn giúp tạo ra nhiều việc làm, giải quyết được vấn đề thu nhập cho một bộ phận lớn người lao động, thúc đẩy tiến trình đô thị hóa. Tuy nhiên, do phụ thuộc nhiều vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong khi khả năng hấp thụ tri thức, mức độ tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất còn thấp nên nền kinh tế trong nước chưa tích lũy được năng lực sản xuất mới và hiện đại. Rủi ro hai khu vực kinh tế trong một quốc gia và tình trạng nằm ở vị trí thấp trong chuỗi giá trị toàn cầu là hiện hữu, khiến cho nền kinh tế phụ thuộc ngày càng nhiều vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, việc làm nói riêng và tăng trưởng kinh tế nói chung.
Xu thế chủ đạo tác động tới hoạt động kinh tế các quốc gia
Bối cảnh thế giới nói chung và kinh tế thế giới nói riêng cho thấy một số xu thế lớn đang diễn ra với tốc độ nhanh và mạnh, góp phần chủ đạo vào quá trình định hình các hoạt động kinh tế của hầu hết các quốc gia, trong đó có Việt Nam:
Thứ nhất, toàn cầu hóa và liên kết kinh tế tiếp tục là xu thế lớn nhưng cục diện kinh tế - thương mại có nhiều chuyển biến liên tục, phức tạp, nhanh chóng và sâu sắc. Nội hàm của liên kết kinh tế tiếp tục được mở rộng và thâm nhập vào các vấn đề, lĩnh vực mới, như kết nối kết cấu hạ tầng, khoa học, kỹ thuật, năng lực sản xuất, nguồn nhân lực chất lượng cao, phòng, chống dịch bệnh, an ninh mạng, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Thứ hai, xuất hiện thêm nhiều hơn hình thức cạnh tranh kinh tế, các biện pháp phòng vệ thương mại từ tiêu chuẩn kỹ thuật, bảo vệ môi trường, quyền con người liên tiếp được áp dụng và gần đây là việc áp dụng các chính sách công nghiệp của chính quyền nhiều quốc gia nhằm can thiệp sâu hơn vào các lĩnh vực cạnh tranh mang tính chiến lược.
Thứ ba, cán cân kinh tế thế giới đang dịch chuyển về khu vực châu Á và các nền kinh tế mới nổi song song với quá trình chuyển dịch sức mạnh chính trị, kinh tế, ngoại giao và khoa học, công nghệ từ Tây sang Đông.
Thứ tư, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vừa tạo ra cơ hội, vừa tạo ra thách thức cho quá trình chuyển đổi nền kinh tế của các quốc gia. Việc ứng dụng thành tựu về tự động hóa và chế biến, chế tạo thông minh có thể tạo ra bước ngoặt đối với phương thức sản xuất phổ biến và chuyển dịch các chuỗi sản xuất hàng hóa.
Trước những tồn tại trong hoạt động sản xuất hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam và những biến đổi sâu sắc này của kinh tế thế giới, hoạt động sản xuất hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đứng trước cả những thời cơ và thách thức. Việt Nam đang và sẽ tiếp tục mất dần lợi thế của một nước đi sau trong sản xuất và xuất khẩu hàng hóa, bao gồm lao động, tài nguyên và năng lượng giá rẻ cũng như nguồn vốn đầu tư nước ngoài dồi dào nhờ các ưu đãi tài chính lớn. Nếu coi hoạt động sản xuất hàng hóa xuất khẩu là động lực tăng trưởng quan trọng của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới thì cần phải có sự thay đổi căn cơ về năng lực sản xuất hàng hóa nói chung và năng lực sản xuất hàng hóa xuất khẩu nói riêng. Ngược lại, việc thất bại trong nâng cao năng lực sản xuất không chỉ kìm hãm nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, mà còn cản trở quá trình tăng cường năng lực nội tại, làm suy giảm mức độ độc lập, tự chủ của nền kinh tế trong bối cảnh địa kinh tế, chính trị biến động, tăng nguy cơ nền kinh tế rơi vào bẫy thu nhập trung bình và làm chậm tiến trình đạt được mục tiêu trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045.
Một số giải pháp trọng tâm nhằm cấu trúc lại hoạt động sản xuất hàng hóa xuất khẩu trong thời gian tới
Thứ nhất, nâng cao năng lực nội tại và tính tự chủ của nền kinh tế trong hoạt động sản xuất hàng hóa xuất khẩu thông qua: 1- Đổi mới tư duy và quan điểm, thống nhất nhận thức và hành động bằng các nghị quyết, chương trình, kế hoạch hành động của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động sản xuất và xuất khẩu hàng hóa; 2- Nghiên cứu ban hành và triển khai có hiệu quả các chương trình phát triển công nghiệp nói chung và công nghiệp chiến lược nói riêng theo tuần tự là các dự án nghiên cứu và phát triển công nghiệp có quy mô đầu tư lớn của Nhà nước, phát triển công nghiệp chiến lược thông qua ứng dụng kết quả các dự án nghiên cứu vào thực tiễn và tăng cường tính thương mại và áp dụng kết quả của hai giai đoạn trước vào toàn bộ lĩnh vực công nghiệp trên phạm vi cả nước nhằm khuếch đại ảnh hưởng và thu được hiệu quả ở mức tối đa; 3- Tạo lập và củng cố vị thế của Việt Nam trong mạng lưới liên kết sản xuất hàng hóa theo hướng trở thành quốc gia đầu mối trong thương mại một số hàng hóa chủ lực; tích cực và chủ động tập hợp các lực lượng kinh tế và đẩy mạnh liên kết với các đối tác có tiềm năng trao đổi thương mại, tránh việc bị phụ thuộc quá nhiều vào một số đối tác thương mại cụ thể; 4- Thay đổi tư duy hội nhập kinh tế quốc tế từ định hướng xuất khẩu sang kết hợp định hướng xuất khẩu với phát triển thị trường trong nước bằng việc nâng cao chất lượng hàng hóa và dịch vụ sản xuất trong nước và bảo đảm lợi ích của người tiêu dùng, hình thành các chuỗi cung ứng hàng hóa trong quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, sắp xếp lại bộ máy chính quyền, phát triển liên kết vùng; 5- Tiếp tục cải cách thể chế kinh tế thông qua việc làm rõ cách thức Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế (gồm cả công cụ trực tiếp và gián tiếp, cách thức thiết lập và vận dụng các nguyên tắc thị trường, sự hiện diện và mức độ tham gia vào các ngành, lĩnh vực sản xuất hàng hóa…) và tạo dựng một thể chế đủ linh hoạt cho việc thực hiện các thử nghiệm kinh tế tại các vùng, địa phương và lĩnh vực.
Thứ hai, đổi mới mạnh mẽ chính sách công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến, chế tạo hàng hóa xuất khẩu theo hướng: 1- Chuyển từ chính sách theo hướng “đuổi kịp” sang hướng “nhảy vọt” thông qua lựa chọn một số ngành thâm dụng vốn và công nghệ cao; từng bước chuyển từ ứng dụng và làm chủ công nghệ sang xây dựng năng lực sáng tạo có tính đột phá để có thể đi tắt, đón đầu các ngành chủ lực trong tương lai. 2- Đánh giá các năng lực sản xuất hiện tại của nền kinh tế, dự báo tăng trưởng nhu cầu tiêu thụ hàng hóa toàn cầu, đánh giá khả năng cạnh tranh từ các đối thủ để xác định các lĩnh vực và hàng hóa xuất khẩu chiến lược của quốc gia. 3- Đẩy mạnh nhập khẩu thiết bị sản xuất hiện đại gắn với chuyển giao công nghệ từ nước ngoài và thúc đẩy sáng tạo công nghệ trong nước, đặc biệt là các ngành công nghệ chủ chốt trong quá trình thực hiện các đại dự án của quốc gia. 4- Tiếp tục duy trì trạng thái toàn dụng lao động thông qua chọn lọc và mở rộng hơn các ngành công nghiệp thâm dụng lao động về hai đầu của chuỗi giá trị để tránh tình trạng không có các giải pháp đổi mới sáng tạo mang tính tự thân mà phải nhập khẩu từ nước ngoài, khắc phục thực tế hiện nay khi hoạt động đổi mới sáng tạo diễn ra ở sản phẩm chứ không mở rộng sang quy trình sản xuất; tiếp tục đa dạng hóa và nâng cao hàm lượng tri thức, kỹ năng của người lao động kết tinh trong sản phẩm. 5- Tạo lập cơ chế cho các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các tập đoàn, tổng công ty tham gia vào các dự án công nghiệp lớn có tính chiến lược của quốc gia, kể cả theo cơ chế đặt hàng của Nhà nước, để tạo ra sức bật và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế cho các doanh nghiệp này. 6- Triển khai các chính sách công nghiệp gắn với công tác quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội và áp dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để tạo ra một thị trường đủ lớn đối với các sản phẩm và dịch vụ cho người dân và doanh nghiệp trên phạm vi cả nước.
Thứ ba, thúc đẩy hoạt động khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong toàn nền kinh tế nói chung và hoạt động sản xuất và xuất khẩu hàng hóa nói riêng theo hướng: 1- Lấy doanh nghiệp sản xuất làm trung tâm thông qua tăng cường liên kết với các viện nghiên cứu, trường đại học, trung tâm đổi mới và hỗ trợ đổi mới sáng tạo, tập trung vào nâng cao năng lực tiếp thu, làm chủ và tham gia tạo ra công nghệ mới đáp ứng chính nhu cầu sản xuất hàng hóa xuất khẩu của doanh nghiệp. 2- Thúc đẩy chuyển giao, làm chủ và phát triển công nghệ sản xuất hàng hóa gắn với chuyển giao tri thức, đào tạo nhân lực khoa học, công nghệ chất lượng cao từ nước ngoài vào trong các ngành, lĩnh vực công nghiệp chiến lược của quốc gia có tính quyết định đối với chất lượng và số lượng hàng hóa xuất khẩu. 3- Ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ hình thành và phát triển một số doanh nghiệp sản xuất để phát triển và nâng cao năng lực tự chủ về khoa học - công nghệ trong các lĩnh vực công nghệ số, công nghệ thông tin, điện tử - viễn thông và an ninh, an toàn mạng, đủ để dẫn dắt quá trình chuyển đổi số của đất nước, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất hàng hóa xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh trên trường quốc tế; 4- Ban hành cơ chế thu hút nhân tài khoa học, công nghệ và hình thành mạng lưới chuyên gia trong nước và quốc tế trong các lĩnh vực chiến lược. 5- Tăng cường đầu tư cho nghiên cứu khoa học cơ bản, đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp nền tảng cho hoạt động sản xuất.
Thứ tư, đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, dần đưa nhân lực trở thành yếu tố quan trọng nhất để nâng cao năng lực nội tại và tính tự chủ của nền kinh tế: 1- Phát triển nhân lực các cấp có trình độ đáp ứng yêu cầu phát triển của các ngành nghề, địa phương và đất nước thông qua xây dựng các tiêu chí, tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng nguồn nhân lực, theo hướng xuất phát từ phía cầu (mức độ đáp ứng nhu cầu về việc làm) thay vì dựa vào các tiêu chí liên quan đến bằng cấp, chứng chỉ như hiện nay. 2- Kết hợp với cơ chế, chính sách tuyển dụng nhân lực để tạo ra sự chuyển biến nhận thức trong toàn xã hội về đào tạo, tự đào tạo trong phát triển nguồn nhân lực và áp dụng chế độ “chức nghiệp thực tài” bằng cách đổi mới phương thức tuyển dụng, đánh giá, trả lương, khen thưởng, đề bạt, bổ nhiệm. 3- Xây dựng xã hội học tập, đổi mới và sáng tạo không ngừng các mô hình học tập, đào tạo ngay trong doanh nghiệp. 4- Tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động có kỹ năng được chuyển nghề, lĩnh vực và địa bàn để tận dụng tối đa các cơ hội việc làm trong bối cảnh chuyển đổi kinh tế.
Thứ năm, tiếp tục thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô đồng bộ, nhất quán, kịp thời và linh hoạt với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, làm nền tảng cho các hoạt động sản xuất hàng hóa xuất khẩu diễn ra thuận lợi và hiệu quả: 1- Nâng cấp năng lực quản trị quốc gia và điều hành kinh tế vĩ mô trong điều kiện nền kinh tế tiếp tục hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới. 2- Tăng cường năng lực nghiên cứu, dự báo các xu hướng, diễn biến kinh tế thế giới tác động tới hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nước và tăng cường khả năng thích ứng, chuyển hóa các dự báo thành các chính sách, giải pháp cụ thể đối với doanh nghiệp xuất khẩu và các đối tượng liên quan khác. 3- Phối hợp chặt chẽ chính sách tài khóa, tiền tệ, đầu tư, thương mại, ngoại giao và các chính sách lớn khác, bảo đảm tính nhất quán giữa các chính sách, giữa xây dựng và triển khai chính sách, giữa Trung ương và địa phương để bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả của các chính sách, làm nền tảng ổn định cho hoạt động xuất khẩu. 4- Khuyến khích phát triển các nguồn năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, các công nghệ sản xuất thân thiện với môi trường nhằm giảm thiểu tác hại tới hệ sinh thái và thích ứng với biến đổi khí hậu. 5- Phát triển năng lực ngành xây dựng và giao thông tiên tiến, đáp ứng nhu cầu của người dân và doanh nghiệp về hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội các khu đô thị và khu công nghiệp theo hướng thân thiện với môi trường và tăng cường an sinh xã hội.
Thứ sáu, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho hoạt động sản xuất và xuất khẩu hàng hóa: 1- Đổi mới cơ chế phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài, thiết lập cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các bộ, ngành, địa phương trong hoạch định và thực thi pháp luật, chính sách về đầu tư nước ngoài. 2- Chuyển trọng điểm chính sách thu hút, sử dụng vốn đầu tư nước ngoài từ số lượng sang chất lượng, có giá trị gia tăng, lấy hiệu quả làm thước đo chủ yếu. 3- Thúc đẩy hợp tác theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa đối tác, hình thức đầu tư và tăng cường đan xen lợi ích trong hợp tác, kết nối chuỗi cung ứng toàn cầu, có tác động lan tỏa sâu rộng tới khu vực kinh tế trong nước. 4- Đổi mới cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư theo kết quả đầu ra như mức độ tham gia chuỗi giá trị, giá trị gia tăng nội địa, hợp phần sử dụng công nghệ, song song với hỗ trợ doanh nghiệp trong nước kết nối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 5- Thực thi các chính sách thu hút, lựa chọn đầu tư nước ngoài theo hướng hài hòa lợi ích và rủi ro giữa các bên, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư nước ngoài liên kết và tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước tham gia vào mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, tăng cường chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản trị hiện đại./.
Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/1097202/tao-dong-luc-moi-cho-tang-truong-kinh-te-viet-nam-thong-qua--cau-truc-lai-hoat-dong-san-xuat-hang-hoa-xuat-khau.aspx
Bình luận (0)