Trao đổi với phóng viên Báo SGGP, TS Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (ảnh), bày tỏ kỳ vọng, khi nội dung sửa đổi được thông qua, nghị quyết sẽ trao cho TPHCM cơ sở pháp lý vững chắc hơn để phát huy đổi mới, sáng tạo.
PHÓNG VIÊN: Có thể nói dự thảo nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 98/2023/QH15 đã khá rõ hình hài. Ông nhìn thấy ở đây những cơ chế đột phá nào đáng lưu ý?
TS NGUYỄN ĐÌNH CUNG: Đọc dự thảo nghị quyết, từ góc độ kinh tế, tôi cho rằng có 2 nội dung nổi bật, đó là về cơ chế TOD (phát triển đô thị theo định hướng giao thông công cộng) và FTZ (khu thương mại tự do).
Dự thảo nghị quyết này cho phép HĐND TPHCM phân bổ ngân sách để thực hiện các dự án đầu tư về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với các dự án áp dụng mô hình TOD. Phạm vi áp dụng bao gồm: khu vực xung quanh nhà ga/điểm dừng thuộc các tuyến đường sắt đô thị; khu vực dọc theo tuyến đường có không gian phát triển đô thị lớn (chẳng hạn tuyến đường Vành đai 3); khu vực để tổ chức các công trình dịch vụ công cộng, chỉnh trang đô thị, phát triển nhà ở và các lô đất được lựa chọn để thu hút nhà đầu tư triển khai dự án phát triển đô thị.
Dự thảo cũng bổ sung các hình thức lựa chọn nhà đầu tư đối với các khu đất TOD để thực hiện việc “đấu giá” hoặc “đấu thầu” lựa chọn nhà đầu tư các dự án đầu tư phát triển đô thị, thương mại, dịch vụ theo quy định của pháp luật hoặc thanh toán cho Nhà nước thực hiện dự án đường sắt áp dụng loại hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT).
Tôi cho rằng, thay đổi đột phá nhất trong cơ chế TOD của dự thảo so với Nghị quyết 98/2023/QH15 hiện hành chính là việc mở rộng phạm vi áp dụng cơ chế TOD từ phát triển hạ tầng giao thông sang phát triển đô thị toàn diện và sử dụng đất để thu hút đầu tư một cách linh hoạt hơn.
Dù hoàn toàn ủng hộ việc trao cơ chế đặc biệt cho TPHCM, nhưng cũng có ý kiến lo ngại về việc thu hút các nhà đầu tư tư nhân đầu tư vào các công trình thuộc lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật bằng phương thức đổi đất lấy hạ tầng (BT)...
Tôi luôn giữ quan điểm thận trọng với hình thức BT. Một khi đổi đất lấy hạ tầng, có ít nhất 3 vấn đề cần quan tâm.
Thứ nhất, các nhà quản lý không xác định đúng giá đất và có thể không bao giờ xác định đúng được. Thứ 2, các nhà đầu tư, nhất là đầu tư bất động sản, sẽ tìm mọi cách tăng giá đất nơi họ được đổi, khiến giá đất, giá nhà và bất động sản tăng, làm khó cho mục tiêu phát triển lâu dài của thành phố. Thứ 3, chênh lệch lớn giữa giá thanh toán và giá thực tế chính là rủi ro pháp lý tiềm ẩn cho cán bộ liên quan. Cách làm tốt hơn, theo tôi, là Nhà nước và nhà đầu tư phát triển cùng chia sẻ lợi ích từ chênh lệch địa tô.
Với FTZ thì sao? Ông nhận thấy những cơ chế đặc biệt cho FTZ trong dự thảo đã hợp lý chưa?
Nhiều cơ chế cao hơn, thậm chí rất độc lập so với pháp luật hiện hành. Nhưng, tôi cho rằng đã làm FTZ thì nhất định phải thế, không thể khác được.
Các chính sách trong dự thảo thuộc 5 nhóm: thuế - hải quan; đầu tư - tài chính; thể chế quản lý; lao động, cư trú, đất đai; hạ tầng và logistics. Ví dụ, ở nhóm thuế - hải quan, dự thảo đề xuất “khu thương mại tự do được áp dụng chế độ hải quan riêng biệt, hàng hóa ra vào khu được coi là hoạt động xuất nhập khẩu đặc thù, không chịu thuế xuất khẩu, nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng, trừ trường hợp đưa vào nội địa Việt Nam”.
Hiện nay, mới chỉ các khu phi thuế quan (như khu chế xuất) được miễn thuế trong phạm vi hạn hẹp và vẫn chịu giám sát hải quan. Còn ở đây, dự thảo đề xuất mô hình tự do tương tự như của Dubai JAFZA hoặc Singapore FTZ. Ở nhóm chính sách về đầu tư - tài chính, dự thảo quy định “cho phép dòng vốn và ngoại tệ được chuyển vào, ra khu thương mại tự do mà không bị giới hạn; thí điểm cơ chế sandbox tài chính - ngân hàng, fintech và thanh toán xuyên biên giới”.
Về thể chế quản lý, ban quản lý FTZ có nhiều thẩm quyền tương đương cấp bộ. Cụ thể là ban này trực thuộc Chính phủ, hoạt động theo cơ chế ủy quyền đặc biệt, có thẩm quyền giải quyết đầu tư, hải quan, lao động, thuế trong khu mà không cần xin ý kiến các bộ, ngành trung ương, nghĩa là phân cấp sâu hơn cả Nghị quyết 98/2023/QH15.
Về lao động - cư trú - đất đai, đột phá nhất của dự thảo là cho phép chuyên gia nước ngoài, nhà quản lý, khoa học làm việc trong khu được cấp thị thực dài hạn 5-10 năm, được quyền cư trú và làm việc từ xa trong lãnh thổ khu thương mại tự do, tạo môi trường làm việc quốc tế hóa ngay trong TPHCM.
Lĩnh vực hạ tầng - logistics cũng rất cởi mở, với quy định “Vị trí khu thương mại tự do được xem xét đặt tại khu vực Cát Lái - Nhà Bè, kết nối cảng biển, sân bay Tân Sơn Nhất và sân bay Long Thành qua hành lang logistics thông minh; cho phép phát triển trung tâm tài chính - thương mại - logistics tích hợp. Việt Nam hiện chưa có mô hình tích hợp này.
Song, tôi muốn nhắc lại một lần nữa, nếu chúng ta muốn xây dựng và vận hành thành công một FTZ thực sự thì những chính sách kể trên là tất yếu.
Như vậy là ông đồng tình với những đề xuất đó?
Tất nhiên, nhưng, tôi còn mong muốn nhiều hơn nữa. TPHCM cần một sandbox thử nghiệm thể chế đích thực. Những cơ chế, chính sách đặc thù hiện vẫn chỉ là TPHCM đề nghị được làm khác trong một số việc, nhưng việc thực hiện chúng lại vẫn theo pháp luật hiện hành.
Vì vậy, việc thực thi các việc được làm khác đó phụ thuộc vào sửa đổi, hay hướng dẫn thực hiện luật pháp liên quan của các cơ quan trung ương. Nếu tiếp tục cách làm như hiện nay, thì dù liên tục có cơ chế đặc thù cũng không thể tái cơ cấu, nâng cấp trình độ phát triển, chuyển đổi TPHCM sang mô hình tăng trưởng mới dựa trên nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh, dựa trên KH-CN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Một nghị quyết mới về sandbox, sửa đổi, bổ sung nghị quyết 98/2023/QH15 trước hết là văn bản pháp lý cho phép TPHCM thử nghiệm thể chế mới, ít nhất có một số nội dung sau đây.
Thứ nhất, xác định cụ thể những lĩnh vực được phép thử nghiệm. Các lĩnh vực này phải bám sát vấn đề phát triển căn bản và định hướng chiến lược phát triển TPHCM (đây là giới hạn phạm vi thử nghiệm). Thứ hai, xác định các kết quả dự kiến đạt được tương ứng đối với các lĩnh vực thử nghiệm nói trên (có kết quả ngắn hạn 2-3 năm, trung hạn 5-7 năm và dài hạn 7-10 năm). Thứ ba, cho phép Đảng bộ, chính quyền TPHCM toàn quyền quy định, quyết định cách làm, công cụ thực hiện và cả bộ máy tổ chức thực hiện.
Tất cả đều có thể khác và ngoài hệ thống pháp luật hiện hành. TPHCM cũng cần có quyền linh hoạt điều chỉnh, thay đổi cần thiết, nếu nhận thấy cách làm chưa đạt mục tiêu...
Mở nhiều nhưng cũng cần lường trước những rủi ro, thưa ông?
Đúng vậy. Đó cũng chính là điều cần đưa vào nghị quyết. Tôi cho rằng, cần xác định các rủi ro tiềm ẩn, quy định cơ chế, công cụ quản lý rủi ro và cả những việc mà chính quyền TPHCM không được làm ngay trong nghị quyết này.
Cùng với đó, cần quy định cơ quan ở trung ương chuyên trách (cùng phối hợp với chính quyền TPHCM và các bên liên quan khác) thường xuyên theo dõi, định kỳ hàng 6 tháng đánh giá.
Trên cơ sở đó, TPHCM có các điều chỉnh phù hợp và định kỳ hàng năm có rút ra các bài học kinh nghiệm về cải cách thể chế.
Nguồn: https://www.sggp.org.vn/tiep-tuc-co-che-dac-thu-phat-trien-do-thi-toan-dien-va-khu-thuong-mai-tu-do-post820112.html






Bình luận (0)