Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Bấp bênh nghề đóng đáy

Có dịp đi tàu dọc theo các tuyến sông lớn ở vùng ÐBSCL, người đi sẽ bắt gặp những thùng phi sơn màu đen nổi trên mặt nước, được giăng ngang giữa dòng sông đang chảy xiết. Ðó là phao của những hàng đáy (còn được gọi là bè đáy) đánh cá…

Báo Cần ThơBáo Cần Thơ03/06/2025


Những hàng đáy trên các sông lớn vẫn còn hoạt động nhưng nguồn tôm, cá bắt được giảm dần.

 

Một thời “hưng thịnh”

Còn nhớ cách đây khá lâu, khoảng năm 2000-2002, trong những chuyến công tác khảo sát đường sông bằng bo bo về hiện trạng bờ sông của các tuyến sông lớn trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long (như sông Hậu, sông Cổ Chiên, sông Măng Thít…), người viết đã “tự thống kê” bằng mắt thường và hỏi một số người ở những xóm chảy đáy khi bo bo cặp bờ, thì sơ bộ có khoảng 30 bè đáy đánh cá trên sông.

Ðiển hình như trên sông Cổ Chiên có xóm đáy khóm 6, phường 5 (thị xã Vĩnh Long nay là TP Vĩnh Long); xóm đáy xóm đình Hòa Mỹ và xóm doi Ðông Thành thuộc xã Mỹ An, xóm đáy vàm Cái Kè thuộc xã Mỹ Phước (huyện Mang Thít); xóm đáy Phước Lý thuộc xã Quới Thiện, xóm đáy vàm Thanh Phong thuộc xã Thanh Bình, xóm đáy Phước Tường thuộc xã Quới An (huyện Vũng Liêm). Trên sông Hậu có xóm đáy ấp Tân Lợi và ấp Tân Thuận thuộc xã Tân Quới (huyện Bình Minh, nay là thị xã Bình Minh), xóm đáy ấp Mỹ An, ấp Phú Xuân, Phú Lợi, Phú Long thuộc xã Phú Thành (huyện trà Ôn), xóm đáy ấp An Thành và Mỹ Thạnh B thuộc xã Thiện Mỹ (huyện Trà Ôn). Trên sông Măng có xóm đáy vàm sông Măng thuộc xã Chánh An (huyện Mang Thít) và ấp 7 thuộc xã Hòa Hiệp (huyện Tam Bình)…

Ði kèm theo những hàng đáy là những xóm đóng đáy (hay xóm đáy) nằm ở ven bờ sông, gần những hàng đáy. Gọi là xóm nhưng chỉ trên dưới 10 hộ làm nghề này. Dấu hiệu nhận biết là khi ngồi trên tàu nhìn về bờ sông, thấy những khung gỗ hình chữ H được dựng lên cao từ 7-10m, đây là giàn phơi những lưới đáy sau khi bè đáy được kéo lên bắt cá hoặc sau khi miệng đáy được nhuộm màu của cây sắn, nhằm giúp lưới đáy thêm chắc.

Chú Hà Thành Hòa (87 tuổi) ở ấp Cái Cạn 1, xã Mỹ Phước (huyện Mang Thít) cho hay, trước đây chú làm nghề chảy đáy trên sông Cổ Chiên, thuộc xóm đáy vàm Hòa Mỹ thuộc xã Mỹ An (huyện Mang Thít), sau này bỏ nghề về xã Mỹ Phước sinh sống. Những năm 1970-1980, xóm đáy doi Ðông Thành, xóm đình Hoà Mỹ rất nhộn nhịp, có 15 hộ chảy đáy với gần 20 miệng đáy, trong đó có cả những hộ từ Châu Ðốc, Tân Châu (An Giang) về đây chảy đáy. Cá tôm ngày ấy nhiều lắm, nhất là trong thời gian chiến tranh biên giới Tây nam xảy ra, chảy được cá linh vô số kể, hộ nào cũng vài đống cá linh chất cao như đống lúa. Chủ đáy kéo đáy lên không nỗi phải xả đáy, cá nhiều quá có hộ lựa không xuể phải nhờ cả xóm đến lựa. Xóm đáy ngày đêm nhộn nhịp hẳn lên khi vào mùa cá.

Ở phường Tân Hòa (TP Vĩnh Long), trước đây có xóm đáy đình Tân Hoa (thuộc ấp Tân Hương xã Tân Hòa, TX Vĩnh Long) cũng trải qua một thời trù phú. Hồi mới sau giải phóng năm 1975, xóm đáy có 14 hộ, nhờ hứng nguồn cá ngay dòng sông chính - sông Tiền, nên tôm cá rất nhiều. Mùa lũ, mùa khô, hộ đóng đáy đều chảy được cả. Mùa lũ, chảy trúng nhiều cá nhất là vào mùng 10 đầu của tháng 10 âm lịch, có nhiều cá linh, tôm càng xanh…; còn mùa khô thì chảy trúng nhất là vào tháng 11, tháng 12 âm lịch có cá cơm, cá lòng tong, cá phèn, lưỡi trâu, mồng gà, cá đuối… Nhưng xóm đáy này đã bị giải tán vào năm 2002 vì nằm trong phạm vi bảo vệ cầu Mỹ Thuận.

Thu nhập bấp bênh, nghề dần mai một

Theo số liệu báo cáo năm 2002 của đơn vị quản lý ngành thủy sản tỉnh lúc đó là Chi cục Bảo vệ nguồn lợi thủy sản tỉnh Vĩnh Long, toàn tỉnh có tổng cộng 180 hộ làm nghề đóng đáy. Số lượng bè đáy nhiều nhất là ở huyện Vũng Liêm có gần 50 bè với sản lượng khai thác khoảng 150 tấn/năm và huyện Trà Ôn có 30 bè đáy với sản lượng khai thác khoảng 80 tấn/năm… Nhưng giờ đây, con số này đã giảm đáng kể, nhiều hàng đáy nghỉ đóng; nguyên nhân do lượng tôm, cá ngoài sông ngày càng giảm, kéo theo sản lượng đánh bắt giảm mạnh, thời gian đánh bắt không ổn định, thu nhập của ngư hộ quá thấp và là công việc nặng nhọc, nguy hiểm.

Anh Huỳnh Văn Thanh ở xóm đáy khóm 6, phường 5 (TP Vĩnh Long), người có thâm niên làm nghề đóng đáy cho hay, lượng tôm cá giảm mạnh kể từ sau những năm lũ lớn 2000-2002. Số lượng cá, tôm giảm dần mà số loài tôm, cá cùng giảm theo; hiện có nhiều loài vắng bóng như tôm càng xanh, cá bóng đen, cá lưỡi trâu, cá phèn.., chảy đáy chỉ bắt được chủ yếu là cá lòng tong, cá cơm. Từ đó nghề đóng đáy thu nhập rất bấp bênh.

Hiện tại anh Thanh còn 2 miệng đáy rộng 14m, đóng trên hàng đáy ngang sông Cổ Chiên. Mỗi ngày, anh chỉ chảy được vào con nước lớn lúc triều lên, hễ nước vừa lớn là chạy ghe ra hàng đáy thả đáy; rồi chờ khoảng 5-6 giờ khi nước chảy chậm lại thì kéo miệng đáy lên bắt cá; mỗi lần như vậy anh chỉ bắt được từ 5-7kg cá, đem ra chợ Vĩnh Long bán được từ 300.000-400.000 đồng. Mà không phải ngày nào cũng bắt được số cá như thế, có bữa chỉ được vài trăm gram, đành để nhà ăn.

Tính ra, mỗi năm anh chỉ làm được 6 tháng (từ tháng 11 âm lịch năm trước đến tháng 5 âm lịch năm sau), cứ mùa nước son đến là nghỉ, mỗi tháng chỉ chảy đáy được chừng 15 ngày vào 2 kỳ nước lớn (rằm và 30 tháng âm lịch), thu nhập từ 5-6 triệu đồng/tháng. Do thu nhập thấp, không đủ lo cho 4 người trong gia đình, nên hiện giờ anh chỉ làm nghề đáy một mình, không dám thuê ai phụ, mặc dù việc kéo 2 miệng đáy rất nặng nhọc và ra giữa sông lớn rất nguy hiểm. Hết mùa đáy là vợ chồng anh phải làm thuê đủ thứ việc mới đủ sống.

Anh Thanh buồn bã cho biết thêm, thu nhập bấp bênh nên những xóm nghề, những hàng đáy ngày càng mai một. Trước đây, xóm đáy khóm 6 này sung lắm, có nhiều ghe, xuồng đáy đậu dày đặc dọc bờ sông Cổ Chiên, kéo dài gần 1 cây số, từ vàm Cái Sơn Bé đến vàm sông Long Hồ. Nay chỉ còn lại 4 hộ hành nghề, cộng với 6 hộ nữa ở xã An Bình (huyện Long Hồ) là 10 hộ, đóng 13 miệng đáy trên hàng đáy ngang sông Cổ Chiên hiện giờ. Sở dĩ, xóm đáy này tồn tại hơn 30 năm qua là vì đa phần là hộ nghèo, ít vốn, không có đất, nên miệng đáy và ghe, xuồng là phương tiện mưu sinh duy nhất của họ. Những hộ bám trụ đến bây giờ còn nhờ nhận được tiền bồi hoàn đất, tiền hỗ trợ của chính quyền để làm công trình kè chống sạt lở bờ sông Cổ Chiên.    

Còn theo chú Hà Thành Hòa, xóm đáy voi Ðông Thành và xóm đáy đình Hòa Mỹ (xã Mỹ An, huyện Mang Thít) đã nghỉ làm hơn 15 năm nay, phần lớn ngư hộ đã chuyển sang làm công nhân cho các lò gạch, có hộ quay sang đánh bắt cá bằng ghe cào. Hiện cả đoạn sông Tiền, sông Cổ Chiên kéo dài hàng chục cây số, từ cầu Mỹ Thuận đến đầu cù lao Dài (xã Quới Thiện, huyện Vũng Liêm) chỉ thấy duy nhất xóm đáy khóm 6, phường 5 (TP Vĩnh Long) còn hoạt động.

Anh Thanh thố lộ, tuy xóm đáy mấy chục năm tồn tại, nhưng không thấy ai khá, giàu lên từ nghề này, phần lớn hộ dân làm đáy ven sông vẫn còn khó khăn; còn làm là còn tiền, hết mùa thì phủi tay. Nghề cha truyền con nối, không được tập huấn kỹ thuật đánh cá, cũng không được hỗ trợ vốn để phát triển nghề. Lúc đầu, Nhà nước còn buộc xin giấy phép hoạt động khai thác cá và đóng thuế, sau này mùa cá ngày càng thất nên chính quyền miễn luôn. Những hộ bám nghề ngày càng khó khăn hơn khi nguồn tôm, cá cạn dần, mặc dù nghề này còn khả năng giữ vững, vì là nghề cung cấp thực phẩm cho bữa ăn hàng ngày của người dân. Tôm, cá sông tự nhiên hiện vẫn được nhiều người tiêu dùng ưu chuộng, nhưng số lượng đánh bắt được ngày càng vơi dần cũng như nghề làm đáy vùng sông nước nơi đây ngày càng mai một...

Bài, ảnh: HẠNH LÊ

Nguồn: https://baocantho.com.vn/bap-benh-nghe-dong-day-a187104.html


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chuyên mục

Độc đáo thú nuôi sứa cảnh mini
Cung đường đẹp như tranh, được ví von là 'Hội An thu nhỏ' ở Điện Biên
Ngắm Đầm Chuồn đỏ rực lúc bình mình
Khám phá rừng nguyên sinh Phú Quốc

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm