Thứ trưởng Phan Tâm - Phó Trưởng Ban Chỉ đạo Bộ VHTTDL về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, cải cách hành chính và Đề án 06 chủ trì Hội thảo.
Tại Hội thảo, trình bày tham luận với chủ đề "Chuyển đổi số ngành văn hóa: Nhận thức, cách tiếp cận và thiết lập hệ sinh thái", GS.TS Từ Thị Loan, nguyên Quyền Viện trưởng Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam cho biết, chuyển đổi số ngành văn hóa không chỉ là số hóa các tài liệu, hiện vật (chuyển từ vật lý sang bản số), mà còn là chuyển đổi tư duy, phương thức hoạt động, cách tiếp cận và mô hình tổ chức- quản trị nhờ ứng dụng công nghệ số, dữ liệu lớn (big data), trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), Cloud Computing, Blockchain...
GS.TS Từ Thị Loan, nguyên Quyền Viện trưởng Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam.
Theo GS.TS Từ Thị Loan, chuyển đổi số ngành văn hóa có bản chất và đặc thù khác hẳn so với các ngành kinh tế- kỹ thuật. Mục tiêu của chuyển đổi số văn hóa không chỉ hướng tới hiệu quả kinh tế hay tự động hóa, mà chú trọng bảo tồn, phát huy giá trị bản sắc, chiều sâu lịch sử, văn hóa, truyền thống, các hình thức biểu đạt sáng tạo. Như vậy, chuyển đổi số không phải là mục tiêu tự thân, mà là phương tiện, công cụ giúp nâng cao hiệu quả của toàn bộ quá trình: gìn giữ, lan tỏa, đổi mới và phát triển văn hóa.
Từ đó dẫn tới cách tiếp cận của chuyển đổi số trong văn hóa không đơn thuần là "số hóa" hay "đưa lên mạng", mà là chuyển đổi tư duy bảo tồn, tiếp nhận, tổ chức, phát triển hình thức giao tiếp và biểu đạt mới trên không gian số; đảm bảo bản sắc và giá trị truyền thống không bị mất đi/biến dạng khi chuyển lên môi trường số.
Tại Hội thảo, GS.TSKH Hồ Tú Bảo, Thành viên Hội đồng tư vấn quốc gia về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đã phân tích các khái niệm về "số", "môi trường thực - số", các cấp độ chuyển đổi số và phương pháp luận ST-235.
GS.TSKH Hồ Tú Bảo cũng nêu các nguyên tắc cơ bản để làm chuyển đổi số gồm ba cặp: Tổng thể và toàn diện; Đồng bộ và đột phá; Chính chủ và lãnh đạo. Đồng thời, nêu các vấn đề về số hóa di sản, tài nguyên văn hóa; Sáng tạo, sản xuất, phổ biến văn hóa và nghệ thuật; Đổi mới phương thức hưởng thụ, tiêu dùng, trải nghiệm văn hóa của công chúng; Đổi mới phương thức hưởng thụ, tiêu dùng, trải nghiệm văn hóa của công chúng; Đổi mới phương thức hưởng thụ, tiêu dùng, trải nghiệm văn hóa của công chúng và nêu một số gợi ý cho chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa.
GS.TSKH Hồ Tú Bảo, Thành viên Hội đồng tư vấn quốc gia về phát triển khoa học công nghê, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số
Chia sẻ về công nghệ bản sao số (digial twin) và chuyển đổi số văn hóa, TS. Nguyễn Nhật Quang, Thành viên Hội đồng tư vấn quốc gia về phát triển khoa học công nghê, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số cho rằng, chuyển đổi số không phải là xây dựng một thế giới số thay cho thế giới thực mà là quá trình tích hợp môi trường số vào môi trường vật lý và xã hội để làm cho đời sống thực tốt đẹp hơn. Môi trường số có hai đặc trưng chính là dữ liệu số (bao gồm cả năng lực xử lý dữ liệu) và kết nối số
Bản sao số là một phương thức tổ chức hiệu quả môi trường số. Dữ liệu số mô tả môi trường thực được tổ chức theo cấu trúc các tài sản vật lý và cấu trúc tổ chức xã hội. Các kết nối số đảm bảo việc thu thập dữ liệu quan trắc thế giới thực, cập nhật thời gian thực vào mô hình, đảm bảo tính song sinh trong toàn bộ vòng đời. Dữ liệu được xử lý thành thông tin hữu ích và được phân phối thông qua kết nối số.
TS. Nguyễn Nhật Quang, Thành viên Hội đồng tư vấn quốc gia về phát triển khoa học công nghê, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số
Theo TS. Nguyễn Nhật Quang, sử dụng công nghệ bản sao số (dữ liệu số và kết nối số) để gia tăng giá trị cho các sản phẩm văn hóa. Số hóa di sản vật thể và phi vật thể. Kết nối bản sao số với các sản phẩm, dịch vụ kinh tế khác nhằm gia tăng giá trị. Sử dụng dữ liệu số và kết nối số cũng góp phần sáng tạo và lan tỏa các giá trị văn hóa, hỗ trợ phát triển du lịch, văn hóa, ẩm thực. Thúc đẩy việc hình thành và phát triển công nghiệp văn hóa.
Đồng thời, xây dựng hệ thống quản trị văn hóa thông minh, chính quyền số trong lĩnh vực văn hóa, thúc đẩy sự tham gia của người dân trong quản lý văn hóa.
Chia sẻ bài học kinh nghiệm về phát huy nguồn lực di sản, thúc đẩy chuyển đổi số từ thực tiễn Di tích Quốc gia đặc biệt Văn Miếu - Quốc Tử Giám, bà Nguyễn Liên Hương, Phó Giám đốc Trung tâm hoạt động văn hóa khoa học Văn Miếu cho biết, trong giai đoạn đại dịch Covid-19 bùng phát, toàn bộ di tích phải đóng cửa kéo dài. Đây được xem là giai đoạn khủng hoảng nghiêm trọng nhưng cũng lại là cơ hội để di tích nhìn nhận và tiếp cận những hướng đi mới.
"Chúng tôi nhận ra việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số là cơ hội vàng để thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di tích", bà Nguyễn Liên Hương cho hay.
Kể từ sau đại dịch, Covid-19, Văn Miếu - Quốc Tử Giám đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số với một số hoạt động nổi bật như: Số hóa tài liệu, hiện vật và hệ thống tham quan (áp dụng vé điện tử; sử dụng mã QR cho các tài liệu, hiện vật, công trình kiến trúc, sử dụng công nghệ để tăng tương tác của du khách với di tích); Xây dựng cơ sở dữ liệu số 3D (triển khai dự án số hóa toàn diện bằng giải pháp công nghệ số hóa 2D, 3D, AR/VR 3D, VR360, Holosys, trình chiếu Hologram, 3D mapping… kết hợp với nghiên cứu văn hóa- lịch sử nhằm tạo ra các sản phẩm số chất lượng cao phục vụ nghiên cứu, giáo dục và quảng bá di tích, đặc biệt phù hợp với nhu cầu trải nghiệm hiện đại của giới trẻ).
Bên cạnh đó, ứng dụng công nghệ bóc tách, số hóa các hoa văn cổ trên hiện vật, trên các hạng mục kiến trúc để thiết kế sản phẩm lưu niệm đặc trưng, mang dấu ấn riêng của Văn Miếu- Quốc Tử Giám, đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách, đặc biệt là khách quốc tế và giới trẻ.
Ngoài ra, Trung tâm cũng đẩy mạnh áp dụng trí tuệ nhân tạo (AI), xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu chuẩn hóa, đồng bộ, ứng dụng các phần mềm quản lý công việc tự động...
Bà Nguyễn Liên Hương, Phó Giám đốc Trung tâm hoạt động văn hóa khoa học Văn Miếu
Phó Giám đốc Trung tâm hoạt động văn hóa khoa học Văn Miếu cho biết nhờ áp dụng công nghệ, đẩy mạnh chuyển đổi số, hằng năm, Văn Miếu- Quốc Tử Giám đón hàng triệu lượt khách đến tham quan, tạo nguồn thu phục vụ tái đầu tư, tu bổ di tích cũng như đóng góp cho ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, theo bà Nguyễn Liên Hương, do khu di tích Văn Miếu- Quốc Tử Giám là một trong những đơn vị đi đầu của ngành di sản trong hoạt động chuyển đổi số, do vậy cũng gặp không ít khó khăn, thách thức. Trong đó, hạ tầng thiếu đồng bộ, nguồn nhân lực chuyên môn còn thiếu, đặc biệt tâm lý e ngại, sợ thay đổi của một số cán bộ, nhân viên cũng như kỹ năng sử dụng công nghệ còn hạn chế là những rào cản lớn cho công tác chuyển đổi số của đơn vị.
Do vậy, theo bà Nguyễn Liên Hương, vấn đề quan trọng trước hết là phải thay đổi cách nhìn nhận về quản lý các di tích, cập nhật thường xuyên xu thế, không ngừng tạo ra các sản phẩm, giá trị mới, phải đưa ra mục tiêu, chiến lược rõ ràng giúp việc chuyển đổi số diễn ra liên tục, không đứt gãy và phát huy hiệu quả. Bên cạnh đó, cũng cần huy động đa dạng các nguồn lực, không chỉ phụ thuộc ngân sách nhà nước mà cần có sự tham gia của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội cũng như các cá nhân.
PGS.TS Đỗ Lệnh Hùng Tú, Chủ tịch Hội Điện ảnh Việt Nam
Chia sẻ về một số vấn đề chuyển đổi số với hoạt động sản xuất, phổ biến và lưu trữ điện ảnh - mũi nhọn của công nghiệp văn hóa, PGS.TS Đỗ Lệnh Hùng Tú, Chủ tịch Hội Điện ảnh Việt Nam nhấn mạnh, điện ảnh là ngành nghệ thuật nhưng đồng thời cũng là ngành kỹ thuật, gắn với sự phát triển của khoa học công nghệ.
Việc ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số diễn ra không chỉ trong quá trình sản xuất mà còn trong quá trình phát hành, phổ biến là lưu trữ phim.
Nêu khó khăn của điện ảnh trong hoạt động chuyển đổi số, PGS.TS Đỗ Lệnh Hùng Tú cho rằng ở nước ta hiện nay, điện ảnh chủ yếu phụ thuộc vào tư nhân, sự đầu tư cho điện ảnh của nhà nước còn khiêm tốn. Chính vì vậy, khi tiến hành chuyển đổi số, điện ảnh rất cần có sự quan tâm, đầu tư từ nhà nước; đồng thời có sự phối hợp giữa đầu tư công và đầu tư tư để có sự chia sẻ cần thiết.
Bên cạnh đó, cần quan tâm công tác bản quyền an ninh dữ liệu, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về điện ảnh để chuẩn hóa.
Ông Nguyễn Thành Phúc, Cục trưởng Cục Chuyển đổi số quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ
Theo ông Nguyễn Thành Phúc, Cục trưởng Cục Chuyển đổi số quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ, chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa là việc sử dụng dữ liệu và công nghệ số để chuyển đổi mô hình hoạt động của cơ quan, tổ chức trong ngành văn hóa theo hướng hiện đại, sáng tạo nhằm đạt hiệu quả đột phát và tạo giá trị mới.
Ông Nguyễn Thành Phúc cho rằng, việc đẩy mạnh chuyển đổi số trong ngành văn hóa cần đặc biệt chú trọng đến công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), vì AI sẽ có tác động lớn, đem lại đột phá về năng lực sản xuất, cạnh tranh và thúc đẩy sự phát triển của văn hóa.
Cục trưởng Cục Chuyển đổi số quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ cũng lưu ý chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa phải xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, không chạy theo trào lưu, phong trào.
Tại Hội thảo, đại diện lãnh đạo một số đơn vị thuộc Bộ VHTTDL đã trao đổi, làm rõ các nội dung liên quan đến thực trạng chuyển đổi số ở các đơn vị cũng như đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa.
Ông Hoàng Quốc Việt, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Vietsoftpro
Trong khi đó, đại diện các doanh nghiệp, ông Hoàng Quốc Việt, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Vietsoftpro cho rằng, nút thắt lớn nhất của việc chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa đó là xây dựng cơ sở dữ liệu số ngành văn hóa. Bởi việc xây dựng cơ sở dữ liệu số ngành văn hóa rất phức tạp, số hóa không chỉ là scan một văn bản giấy mà ở đây là cả những hiện vật, công trình.
Ông Hoàng Quốc Việt cũng nhấn mạnh, dữ liệu ngành văn hóa là đặc thù và là tài nguyên có giá trị. Chính vì vậy, việc đẩy mạnh hợp tác công tư, xã hội hóa, huy động sự tham gia của các doanh nghiệp có thể giúp nhà nước giảm chi phí đầu tư và tạo ra giá trị kinh tế tốt.
Kết luận Hội thảo, Thứ trưởng Bộ VHTTDL Phan Tâm cảm ơn các ý kiến đóng góp tích cực, có giá trị cao cả về lý luận và thực tiễn.
Hội thảo đã thống nhất quan điểm chuyển đổi số trong văn hóa không chỉ là sự chuyển đổi đơn thuần về công nghệ mà là sự chuyển đổi toàn diện và sâu sắc trong hành động của các tổ chức, cá nhân trong toàn bộ công đoạn của chuỗi giá trị văn hóa.
Chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa đặt con người, bản sắc văn hóa Việt Nam là trung tâm, đảm bảo tính nhân văn, giữ gìn phát huy các giá trị, chiều sâu văn hóa Việt Nam.
Trong quá trình chuyển đổi số thì đổi mới, sáng tạo liên tục là động lực; công nghệ số là phương tiện, công cụ; dữ liệu số là tài sản; kết nối số, hạ tầng số là môi trường vận hành; thể chế số là cơ chế để kết nối.
Thứ trưởng Bộ VHTTDL Phan Tâm kết luận Hội thảo.
Thứ trưởng Phan Tâm cho biết, Bộ VHTTDL sẽ tiếp thu các ý kiến xác đáng tại Hội thảo, đồng thời tiếp tục tổ chức các hội thảo chuyên sâu, chất lượng để xây dựng Đề án chuyển đổi số lĩnh vực Văn hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
"Mục tiêu là cùng nhau kiến tạo nền văn hóa số Việt Nam hiện đại, nhân văn, gắn kết truyền thống với tương lai, bảo tồn các giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc trên môi trường số. Đồng thời phát triển năng lực sáng tạo số, kết nối quốc tế và đóng góp tích cực nâng cao sức mạnh mềm quốc gia", Thứ trưởng Phan Tâm bày tỏ./.
Nguồn: https://bvhttdl.gov.vn/kien-tao-nen-van-hoa-so-viet-nam-hien-dai-nhan-van-gan-ket-truyen-thong-voi-tuong-lai-20250604155722813.htm
Bình luận (0)