![]() |
Nhờ ứng dụng công nghệ, Công ty CP Dệt may Huế đã tối ưu hóa được năng suất lao động. Ảnh: Hải Thuận |
Thách thức
Để thực hiện thắng lợi hai mục tiêu chiến lược 100 năm, vừa qua, Bộ Chính trị đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng, mang tính chiến lược, liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Quốc hội, Chính phủ đã và đang khẩn trương thể chế hóa các nghị quyết này để sớm đưa các nghị quyết vào cuộc sống nhằm đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Mục tiêu trước mắt là năm nay tốc độ tăng trưởng GDP đạt trên 8%, từ năm 2026 trở đi tăng trưởng GDP đạt hai con số.
Trong lúc tổng lực lượng lao động của nước ta tăng chậm lại, giai đoạn 2021 - 2024 chỉ tăng bình quân 0,96%/năm, muốn tăng quy mô, tốc độ GDP và GDP bình quân đầu người, không còn cách nào khác là phải tăng NSLĐ. Do vậy, NSLĐ là nhân tố quyết định cuối cùng để thực hiện thành công các mục tiêu tăng trưởng mà Đảng, Nhà nước ta đã đề ra. Việc tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), thực hiện ba đột phá chiến lược, đột phá phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, thu hút FDI có chọn lọc... suy cho cùng là nhằm nâng cao NSLĐ. Đến lượt, NSLĐ sẽ tác động trở lại làm tăng quy mô GDP; GDP/đầu người, thu ngân sách nhà nước và tiềm lực của đất nước. Không giải quyết được bài toán tăng NSLĐ, tất cả các mục tiêu đặt ra đều khó đạt được.
Năm 2024, NSLĐ của Việt Nam theo giá hiện hành đạt 221,9 triệu đồng/lao động, gấp 1,3 lần so với năm 2021. Theo giá so sánh, NSLĐ năm 2024 tăng 6,7 triệu đồng so với năm 2023. Bình quân giai đoạn 2011 - 2015, NSLĐ tăng 4,53%/năm; giai đoạn 2016 - 2020 tăng 6,05% và giai đoạn 2021 - 2024 tăng 4,84%/năm.
![]() |
Ứng dụng công nghệ hiện đại trong sản xuất góp phần nâng cao năng suất lao động. Ảnh: L. Thọ |
Trong khu vực ASEAN, NSLĐ của Việt Nam tăng đều với tốc độ cao nhưng quy mô vẫn còn ở mức thấp so với nhiều nước trong khu vực. Tính chung giai đoạn 2011 - 2023, NSLĐ theo sức mua tương đương năm 2021 (PPP 2021) của Việt Nam tăng trung bình 5,2%/năm, cao hơn so với mức tăng bình quân của Malaysia (1,7%/năm), Singapore (1,9%/năm), Thái Lan (1,9%/năm), Philipines (2,8%/năm), Indonesia (2,9%/năm). Tuy vậy, mức NSLĐ của Việt Nam hiện nay vẫn rất thấp so với các nước trong khu vực. Tính theo PPP 2021, NSLĐ của Việt Nam năm 2023 đạt 24.519 USD, chỉ bằng 11,4% NSLĐ của Singapore; 15% của Brunei; 35,5% của Malaysia; 65,4% của Thái Lan; 85,6% của Indonesia. Đáng chú ý là sau 14 năm, chênh lệch về mức NSLĐ của Việt Nam với một số nước phát triển hơn có xu hướng tăng, cụ thể: Chênh lệch mức NSLĐ (tính theo PPP 2021) của Singapore từ 168.260 USD năm 2010 lên 190.924 USD năm 2023; tương tự của Malaysia từ 42.465 USD lên 44.526 USD. Ở chiều ngược lại, chênh lệch NSLĐ của Việt Nam với một số quốc gia có xu hướng giảm: So với Brunei giảm từ 177.651 USD xuống 137.498 USD; Nhật Bản giảm từ 70.996 USD xuống 60.810 USD; Thái Lan giảm từ 16.504 USD xuống 12.957 USD; Indonesia giảm từ 6.947 USD xuống 4.133 USD.
Như vậy, NSLĐ của nước ta đã được cải thiện đáng kể và thu hẹp được khoảng cách tương đối với một số nước ASEAN có trình độ phát triển cao hơn, song vẫn ở mức thấp so với một số nước trong khu vực. Điều đó cho thấy nền kinh tế Việt Nam sẽ phải đối mặt với thách thức rất lớn để có thể bắt kịp với các nước trong thời gian tới.
Tăng lương nhưng phải đi kèm với nỗ lực tạo ra của cải, vật chất
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến NSLĐ của Việt Nam thấp và còn khoảng cách xa với các nước trong khu vực ASEAN như: Cơ cấu lao động theo ngành chưa hợp lý, tỷ trọng lao động ở khu vực nông nghiệp nơi có NSLĐ thấp còn cao; tỷ lệ lao động phi chính thức còn ở mức cao, đa số là lao động giản đơn, công việc thời vụ, không ổn định. Bên cạnh đó, tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào mở rộng quy mô các ngành sử dụng nhiều lao động, hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng thấp. Khu vực doanh nghiệp có đóng góp lớn vào tăng trưởng GDP nhưng phần lớn là doanh nghiệp trong nước với quy mô siêu nhỏ và nhỏ, hoạt động trong những lĩnh vực có NSLĐ tương đối thấp, sản xuất đơn giản hướng vào thị trường nội địa là chủ yếu. Nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu, khả năng hội nhập của lao động Việt Nam chưa cao, trình độ tay nghề còn thấp; máy móc, thiết bị công nghệ lạc hậu, chậm đổi mới…
Theo thống kê của Tổ chức Lao động quốc tế, mức lương tối thiểu hàng tháng theo luật định, tính theo sức mua tương đương (PPP 2021), năm 2022 của Việt Nam đạt 543 USD, gấp 4,2 lần năm 2010. Mặc dù tốc độ tăng mức lương tối thiểu của Việt Nam cao hơn các quốc gia khác nhưng số tuyệt đối lại ở mức thấp so với các nước phát triển hơn. Mức lương tối thiểu của Việt Nam năm 2022 cao hơn Philipines (397 USD) và Lào (323 USD) nhưng chỉ bằng 34% so với Nhật Bản, 26% so với Hàn Quốc, 54% Malaysia và 72% so với Thái Lan. Vì vậy, Việt Nam cần có lộ trình tăng lương tối thiểu theo hướng tiệm cận dần với các nước phát triển hơn trong khu vực nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động, tạo động lực thúc đẩy tăng NSLĐ, rút ngắn khoảng cách với các quốc gia phát triển hơn.
Giải bài toán tăng NSLĐ luôn là vấn đề sống còn đối với mọi nền kinh tế nói chung và nước ta nói riêng. Muốn thoát ra khỏi bẫy thu nhập trung bình, muốn sánh vai với các cường quốc năm châu và thực hiện thành công hai mục tiêu chiến lược đề ra đến năm 2030 và năm 2045, không còn cách nào khác là phải tìm mọi cách để nâng cao NSLĐ. Mỗi người lao động cần phải nỗ lực làm ra nhiều hơn của cải, vật chất cho bản thân mình và cho đất nước.
Nguồn: https://huengaynay.vn/kinh-te/cai-thien-nang-suat-lao-dong-158690.html
Bình luận (0)