Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Cái vỗ vai và quyết định lịch sử đưa Internet vào Việt Nam

(Dân trí) - Việc chính thức kết nối Internet toàn cầu vào năm 1997 được xem là một trong những dấu mốc quan trọng nhất trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Báo Dân tríBáo Dân trí23/08/2025

Cái vỗ vai và quyết định lịch sử đưa Internet vào Việt Nam - 1

Quyết định này đã mở ra một kỷ nguyên mới, tạo tiền đề cho sự phát triển vượt bậc của kinh tế - xã hội.

Người có công lao to lớn và đóng vai trò quyết định trong sự kiện lịch sử này là Tiến sĩ Mai Liêm Trực, nguyên Thứ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông, Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện.

Trong cuộc trò chuyện với phóng viên Dân trí, ông đã chia sẻ những câu chuyện hậu trường đầy tâm huyết về hành trình gian nan thuyết phục, vượt qua ba điều kiện tiên quyết, cùng kỷ niệm về “một cái vỗ vai” thân tình nhưng cũng gửi gắm trọng trách lớn lao từ cố Thủ tướng Phan Văn Khải.

Cái vỗ vai và quyết định lịch sử đưa Internet vào Việt Nam - 2
Cái vỗ vai và quyết định lịch sử đưa Internet vào Việt Nam - 5

- Tôi tiếp cận Internet tương đối sớm, vào tháng 5 năm 1991, khi tôi đi dự hội nghị về thông tin tại Washington D.C, Mỹ. Ở hội nghị đó, ngoài những phiên họp chính thức, tôi có tiếp xúc ngoài lề với các bạn bè người Mỹ và Australia. Họ đã giới thiệu cho tôi về công nghệ Internet. Lúc đó, Internet mới chỉ có email và truyền dữ liệu bằng FTP (File Transfer Protocol), chưa có World Wide Web.

Ngay khi chứng kiến trong một tích tắc có thể gửi được thư điện tử và truyền dữ liệu, tôi đã cảm thấy rất vui mừng. Ở Việt Nam lúc bấy giờ, ngành bưu điện của chúng tôi phải đi phát thư trong nước hay nước ngoài rất khó khăn; việc truyền dữ liệu để in báo nhân dân tại Đà Nẵng hay TPHCM vô cùng vất vả. 

Chính vì thế, tôi nhận thấy cần phải đưa Internet về Việt Nam càng sớm càng tốt và nó sẽ giải quyết những bài toán hiện tại mà ngành bưu điện đang gặp phải. 

Cái vỗ vai và quyết định lịch sử đưa Internet vào Việt Nam - 6

Tuy nhiên, muốn đưa Internet về Việt Nam, chúng tôi phải vượt qua những rào cản lớn. Hay nói cách khác, phải có ba điều kiện.

Thứ nhất là phải có một mạng viễn thông hay mạng điện thoại đã được tự động hóa và số hóa. Lúc đó, Internet truyền trên đường dây điện thoại, người ta gọi là dial-up. Mạng viễn thông Việt Nam thì trong chiến tranh chủ yếu phục vụ quân sự. 

Đến năm 1990, cả nước mới chỉ có khoảng 100.000 số điện thoại. Liên lạc đường dài và quốc tế chỉ có thể thực hiện bằng cách gọi qua điện thoại viên, mà Internet thì không thể tiếp dây qua điện thoại viên để làm được. 

Do đó, ngành Bưu chính Viễn thông đã nỗ lực tự động hóa mạng lưới trong nước và quốc tế. Đến năm 1995, chúng tôi đã số hóa và hiện đại hoá toàn bộ mạng điện thoại, kết nối thuận lợi với quốc tế qua vệ tinh và cáp quang biển. Đây là bài toán thứ nhất đã được giải quyết.

Thứ hai là phải có những doanh nghiệp nắm được công nghệ Internet, đầu tư trang thiết bị và cung cấp dịch vụ.

Thời điểm đó, một số doanh nghiệp đã bắt đầu tìm hiểu công nghệ Internet và có những thí nghiệm như VNPT (lúc đó là VDC), FPT và Viện Công nghệ Thông tin (sau này là NetNam). Họ đã có những thử nghiệm nhất định và sẵn sàng đầu tư nếu được cấp phép.

Thứ ba, trong hoàn cảnh của Việt Nam, một đất nước đã trải qua thời gian chiến tranh, việc này rất nhạy cảm. Đưa Internet phải được lãnh đạo cấp cao nhất của Đảng và Chính phủ cho phép.

Đến năm 1996, khi mạng điện thoại đã được số hóa và tự động hóa, một số doanh nghiệp cũng đã sẵn sàng. Vì vậy, chúng tôi đã báo cáo, giải trình với Bộ Chính trị, Thủ tướng và các bộ ngành để được phép mở Internet.

Đây là một câu chuyện mà rất nhiều người đã tham gia vào quá trình thuyết phục cấp cao. Những lo ngại chính đáng lúc bấy giờ chính là lộ bí mật nhà nước, thông tin độc hại vào Việt Nam như các thông tin xuyên tạc, nói xấu chế độ hoặc những thông tin nhạy cảm. 

Chúng tôi phải thuyết trình, báo cáo, thậm chí làm những bản trình bày trên máy thí nghiệm kết nối cho các vị lãnh đạo cao nhất chứng kiến. Cuối cùng, cấp trên đã cho phép, nhưng vẫn có những lo ngại nhất định.

Vì vậy, Chính phủ đã thành lập một Ban Điều phối quốc gia về Internet ở Việt Nam, gồm nhiều bộ ngành để điều hòa, phối hợp.

Cái vỗ vai và quyết định lịch sử đưa Internet vào Việt Nam - 8

- Vì Internet rất mới với tất cả mọi người nên việc thuyết phục rất khó khăn.

Chúng tôi phải thuyết phục nội bộ các bộ ngành với nhau. Tôi còn nhớ khi gặp Ban Điều phối quốc gia về Internet, đồng chí Lê Khả Phiêu, lúc đó là Thường trực Bộ Chính trị; đồng chí đã hỏi rất nhiều câu về làm sao để không lộ bí mật nhà nước, làm sao để tránh thông tin độc hại.

Cái vỗ vai và quyết định lịch sử đưa Internet vào Việt Nam - 10

Chúng tôi đã báo cáo một cách rất trung thực. Đồng chí Lê Khả Phiêu hỏi: “Thế có lộ bí mật nhà nước không?”.

Tôi đứng dậy phát biểu rõ ràng: “Ngay cả khi chúng tôi làm trao phát truyền thư từ, hay khi làm Telex, fax, rồi đến di động cũng đã có những lo ngại về lộ bí mật nhà nước, thì Internet còn khó hơn”. 

Tuy nhiên, chúng tôi cũng đã đưa ra ba giải pháp chính để hạn chế điều này.

Thứ nhất là giải pháp về kỹ thuật: Cần xây dựng tường lửa (firewall), cùng những phần mềm khác để hạn chế thông tin độc hại.

Thứ hai là giải pháp pháp lý: Tổng cục Bưu điện phải có những quy định về thể lệ, thủ tục cho người khai thác, nhà mạng và người sử dụng Internet. Phải có thông tư liên bộ giữa Tổng cục Bưu điện, Bộ Công an, Bộ Văn hóa Thông tin về quản lý và sử dụng Internet.

Thứ ba là tuyên truyền, hướng dẫn, giáo dục: Tuyên truyền để nâng cao dân trí, để người dân và thế hệ trẻ chọn những thông tin tốt, tránh những thông tin độc hại.

Cái vỗ vai và quyết định lịch sử đưa Internet vào Việt Nam - 12

Thực ra, khi thuyết phục cấp trên, tôi cũng có cảm giác rằng mình nói những cái hay của Internet thì chưa thuyết phục lắm. Vì nó đã có đâu mà biết, chưa thấy tác động của nó.

Cho nên, khi báo cáo với đồng chí Lê Khả Phiêu xong, chúng tôi tiếp tục sang báo cáo Thủ tướng Phan Văn Khải.

Ở nhà riêng của Thủ tướng, khi tiễn đoàn ra đến cổng, ông đặt tay lên vai tôi, vỗ nhẹ nhẹ và dặn: “Trực cố gắng quản lý Internet cho tốt. Chứ nếu mở ra mà phải đóng lại thì không biết ăn nói với thế giới như thế nào?”. 

Một cái vỗ vai, một lời nói nhỏ nhẹ nhưng đối với tôi, trách nhiệm nó nặng nề hơn rất nhiều. Đây là Thủ tướng trực tiếp giao nhiệm vụ cho mình, nên tôi phải nỗ lực để làm cho việc kết nối Internet toàn cầu của Việt Nam thành công.

Cái vỗ vai và quyết định lịch sử đưa Internet vào Việt Nam - 14

-Chỉ thị 58 của Bộ Chính trị có tiêu đề “Phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin ở Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Chỉ thị này xuất phát từ Giáo sư Đặng Hữu, lúc đó là Trưởng ban Khoa giáo Trung ương. 

Ông rất sốt ruột về sự phát triển khoa học công nghệ của nước nhà. Phải nói rằng Ban Khoa giáo Trung ương chủ trì và Giáo sư Đặng Hữu trực tiếp làm. Nội dung rất rộng, nhưng tôi chỉ tham gia một phần về mảng viễn thông và Internet.

Trong bản thảo cuối cùng của Chỉ thị 58, tôi đã đưa vào ba nội dung quan trọng:

Một là, phải thay đổi quan điểm quản lý. Trước đó, phương châm quản lý của Bộ Chính trị và Chính phủ là “quản đến đâu thì mở đến đấy”. Thực chất, phương châm này có nghĩa là những gì chưa quản được thì cấm. Vì thế, mãi không mở được cà phê Internet, số lượng người tham gia rất hạn chế.

Chúng tôi phải kiên trì thuyết phục. Có lần, tôi nhớ anh em ở Phú Yên gọi điện ra báo một số điểm cung cấp Internet công cộng chưa được cấp phép đã bị xử lý. Tôi rất buồn, vì tôi ủng hộ việc phải có Internet công cộng cho người dân, nhưng lúc đó phương châm là vậy, nên đành chịu.  

Cái vỗ vai và quyết định lịch sử đưa Internet vào Việt Nam - 16

Khi xây dựng Chỉ thị 58, chúng tôi đã đưa vào nội dung thay đổi phương châm quản lý là “quản lý phải theo kịp yêu cầu phát triển”. Tức là phát triển đến đâu thì mình phải theo để mà quản lý. 

Sau khi có Chỉ thị 58, tôi mạnh dạn hơn, nói với các cơ quan chức năng rằng ngành bưu điện cứ phát triển, các anh cần quản lý gì thì cứ đề nghị, chúng tôi ủng hộ. Trước đây, bưu điện muốn làm gì cũng phải hỏi ý kiến, được đồng ý mới làm. Bây giờ, chúng tôi cứ làm, còn các anh đi theo để quản lý.

Sau đó, Tổng cục Bưu điện đã xây dựng một nghị định mới về quản lý Internet và sau khi nghị định này được thông qua, chúng tôi đã làm nhiều hướng dẫn. Internet bắt đầu bùng nổ, các cửa hàng Internet mọc lên khắp nơi. 

Phải nói, đây là sự thay đổi lớn về tư duy quản lý. Gần đây, tôi rất mừng khi Tổng Bí thư Tô Lâm nói “kiên quyết từ bỏ tư duy không quản được thì cấm”.

Hai là, tư duy mở cửa cạnh tranh trong thị trường viễn thông. Đây là điểm nghẽn của viễn thông, tức là tình trạng độc quyền doanh nghiệp. 

Trước năm 1997, khi mở Internet, tôi đã ký giấy phép cho bốn nhà mạng cùng lúc để tạo cạnh tranh. Nhưng thực ra, Internet lúc đó còn nhỏ, ít người dùng. 

Vấn đề lớn thực sự là khi tôi mở cửa thị trường viễn thông cho VoIP (Voice over Internet Protocol) - điện thoại qua Internet và sau này là di động. Đó là vấn đề lớn vì liên quan đến doanh thu.

Có những ý kiến từ lãnh đạo lo ngại gay gắt về việc mở cửa thị trường viễn thông: “nếu mở thế này thì không quản lý được, là mất chung cho xã hội”. 

Nhân Chỉ thị 58, tôi đã đưa vào nội dung thứ hai rất quan trọng này, đó là “mở cửa cạnh tranh, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế cùng tham gia phát triển viễn thông và Internet”. Tôi vận dụng chỉ thị của Bộ Chính trị để khẳng định điều này. Đó là cơ sở pháp lý, chúng tôi đã làm theo nghị quyết, chỉ thị của Đảng. 

Nhờ vậy, thị trường viễn thông sau này khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, các doanh nghiệp nước ngoài đã vào nhưng không thể thắng được các doanh nghiệp Việt Nam, vì mình đã mở cửa thị trường trước, doanh nghiệp đã quen với cạnh tranh rồi.

Ba là, thỏa hiệp về cước phí. Thực ra đây là một thỏa hiệp tôi phải làm với Giáo sư Đặng Hữu, vì ông rất tha thiết giảm cước viễn thông và Internet cho các cơ quan Đảng, Nhà nước. Tôi đã đồng ý điều này, nhưng trong lòng biết rằng nó chỉ là tạm thời, khi thị trường cạnh tranh thì giá cước sẽ tự giảm.

Cái vỗ vai và quyết định lịch sử đưa Internet vào Việt Nam - 18

- Việc biết ngoại ngữ giúp tôi rất nhiều. Tôi tham gia rất nhiều hội nghị quốc tế của ITU (Liên minh Viễn thông Quốc tế), UPU (Liên minh Bưu chính Quốc tế),... Thời kỳ Việt Nam còn bị cấm vận, tôi vẫn được các công ty viễn thông của Mỹ và các nước khác hướng dẫn. Việc biết ngoại ngữ cho phép tôi giao tiếp, học hỏi kinh nghiệm của họ một cách trực tiếp.

Cái vỗ vai và quyết định lịch sử đưa Internet vào Việt Nam - 20

Tôi nhớ một lần tại một hội nghị ở Úc, tôi hỏi các đoàn về cách thức tính cước viễn thông và họ đã chỉ cho tôi. Hay như câu chuyện về công nghệ VoIP, tôi đã được đoàn Hồng Kông giới thiệu tại một buổi chiêu đãi. 

Tôi thấy công nghệ này rất hay vì giá cước rẻ, nên khi về đã nói với các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là Viettel, để họ nghiên cứu và triển khai. Nhờ vậy, Viettel đã có bước đi đầu tiên trên thị trường viễn thông.

Việc biết ngoại ngữ giúp tôi hiểu được văn hóa, cách suy nghĩ của các đối tác. Đàm phán không phải là để một bên thắng, mà là để hai bên cùng thắng.

Tôi có thể nói chuyện trực tiếp với lãnh đạo của họ để giải thích những khó khăn của Việt Nam, giúp họ thuyết phục cấp trên của mình. Ngược lại, họ cũng đến giải trình giúp tôi khi tôi gặp khó khăn với các vị lãnh đạo Việt Nam. Tôi luôn nói rằng chúng ta đều ở trên một con thuyền, phải cùng nhau đi đến đích.

Tôi tự hào nói rằng, trong suốt mấy chục năm làm việc với các đối tác lớn trên thế giới từ Mỹ, Đức, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc; chúng tôi luôn làm việc minh bạch, không có chuyện "lại quả" hay tham nhũng. Chúng tôi luôn đàm phán để có được giá cả thấp nhất, mang lại lợi ích cao nhất cho đất nước.

Tôi còn nhớ trong ngày khai trương Internet, có rất nhiều phóng viên của các hãng lớn trên thế giới đến dự. Tôi giật mình vì nghĩ đây chỉ là một vấn đề kỹ thuật nghiệp vụ.

Nhưng sau đó tôi mới nhận ra họ đến để tìm hiểu chính sách của Việt Nam, mức độ mở cửa, hội nhập quốc tế của chúng ta. Khi họ hỏi, tôi đã trả lời thẳng bằng tiếng Anh. Tôi làm vậy để khi họ phát bằng tiếng Anh, thông tin không bị sai lệch theo phát biểu của tôi. 

Ngoại ngữ đã giúp tôi rất nhiều, kể cả trong việc vận động các tập đoàn viễn thông lớn của Mỹ để họ thuyết phục Chính phủ bỏ cấm vận về viễn thông đối với Việt Nam (mở khóa mã quốc gia 084 để khai thông liên lạc giữa hai nước"). 

Cái vỗ vai và quyết định lịch sử đưa Internet vào Việt Nam - 22
Cái vỗ vai và quyết định lịch sử đưa Internet vào Việt Nam - 24

 - Khi Internet vào Việt Nam, chúng ta đã tiếp cận với một xã hội thông tin toàn cầu. Trước hết, nó thể hiện một chính sách của Việt Nam là tiếp tục đổi mới, tiếp tục mở cửa và hội nhập quốc tế. Vị thế của Việt Nam trong ASEAN được nâng lên. Khi tạm biệt nhau ở các hội nghị quốc tế, chúng tôi tự tin mà chào họ là “See you on Internet” (hẹn gặp lại nhau qua Internet). 

Cái vỗ vai và quyết định lịch sử đưa Internet vào Việt Nam - 26

Chúng tôi còn tuyên bố với các nhà đầu tư nước ngoài là: "Các anh làm bất cứ vị trí nào, đặt nhà máy, đầu tư ở đâu, chúng tôi cam kết cung cấp đầy đủ các thiết bị, dịch vụ viễn thông từ Internet, thông tin di động đến quốc tế". 

Trước đây, họ hay phàn nàn về hạ tầng viễn thông, nhưng sau này không còn nữa. Đây là một sự cam kết rõ ràng, giúp thu hút đầu tư nước ngoài.

Cái thứ ba và cũng rất quan trọng là dân trí của Việt Nam được nâng lên rất nhiều. Thực tế cho thấy ở những quốc gia hạn chế Internet, cơ hội tiếp cận tri thức của người dân bị giới hạn, chúng ta đều thấy.

Thêm vào đó, Internet đã tạo tiền đề cho cuộc cách mạng công nghiệp mới. Thế giới bước vào kỷ nguyên của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (công nghiệp 4.0), từ công nghệ số. Cuộc cách mạng này lấy Internet vạn vật (IoT) làm cốt lõi. 

IoT kết nối vạn vật tạo ra nguồn dữ liệu vô cùng lớn. Dữ liệu là tài nguyên chủ yếu của công nghiệp 4.0. Bên cạnh đó, IoT cùng với Big Data, điện toán đám mây và đặc biệt là trí tuệ nhân tạo (AI), đang thay đổi toàn bộ các quy trình, mô hình kinh doanh, quản trị quốc gia.

Hiện nay, theo thống kê, có 80 triệu người dân Việt Nam dùng mạng Internet, trung bình gần 7 tiếng đồng hồ mỗi ngày. Internet đã tạo ra một không gian sống mới, một môi trường sống mới - cuộc sống online, bổ sung rất nhiều cho cuộc sống offline. 

Chúng ta hãy thử tưởng tượng một ngày không có Internet, ngân hàng sẽ làm gì, cơ quan nhà nước làm gì, Chính phủ điện tử, thương mại điện tử sẽ ra sao? Tất cả sẽ đình trệ.

May mắn là đất nước chúng ta đổi mới, ngành Bưu chính Viễn thông và công nghệ thông tin đã bắt kịp cơ hội, tạo điều kiện cho viễn thông và Internet phát triển, đóng góp vào sự thành công của giai đoạn đổi mới đầu tiên. Và hiện nay, nó vẫn là cơ sở cho cuộc cách mạng công nghệ tiếp theo, đó là chuyển đổi số.

Cái vỗ vai và quyết định lịch sử đưa Internet vào Việt Nam - 28
Cái vỗ vai và quyết định lịch sử đưa Internet vào Việt Nam - 30

- Câu chuyện hiện nay của đất nước vẫn là hai vấn đề chính: Khoa học công nghệ và thể chế. Đây là hai nội dung quyết định sự thành bại của cuộc “vươn mình” mà đất nước đang thực hiện trong 20 năm tới, đạt mục tiêu trở thành nước phát triển vào năm 2045.

Về công nghệ, trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba, chúng ta chỉ tiếp cận được một phần. Nhưng kỳ này, chúng ta gần như cùng lúc với các nước tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự phát triển mạnh mẽ của IoT và AI. 

Đây là một cơ hội rất tốt cho Việt Nam. Công nghệ này chủ yếu đi vào trí tuệ, mà trí tuệ người Việt Nam nếu được đào tạo thì không thua kém ai. Chúng ta đã chứng minh điều đó qua thực tế. Vấn đề là cơ sở hạ tầng và thể chế của chúng ta còn yếu kém, chưa phát huy được hết năng lực.

Đây là cơ hội “cuối cùng và duy nhất” cho Việt Nam. Nếu không tận dụng, thế giới sẽ chạy rất nhanh và chúng ta sẽ không có cơ hội nữa. Vì vậy, tôi vẫn ủng hộ quan điểm “vừa chạy vừa xếp hàng”. 

Chúng ta đã lỡ mất 8-9 năm đáng lẽ phải làm từ 2016. Bây giờ, chỉ còn 20 năm nữa, bắt buộc phải làm, phải chấp nhận những khó khăn tạm thời. Và để đạt được mục tiêu này chúng ta phải tinh gọn bộ máy, cơ quan, tổ chức nhà nước.

Mọi việc phải làm trước Đại hội, để sau Đại hội là bộ máy đi vào vận hành. Theo tôi, 5 năm tới sẽ là 5 năm quyết định, nếu không tạo đà phát triển, không xóa những rào cản, không chạy với tốc độ cao thì sẽ rất khó.

Tôi nghĩ xã hội phải chia sẻ và thông cảm điều đó, kể cả khi phải điều chỉnh vị trí công tác để phù hợp với yêu cầu tinh gọn bộ máy. 

Cái vỗ vai và quyết định lịch sử đưa Internet vào Việt Nam - 32

- Bài học lớn nhất mà tôi đúc rút được, đó là khát vọng. Tại sao một đất nước nhỏ bé như Việt Nam lại có thể bảo vệ được độc lập của mình? Đó là nhờ khát vọng độc lập, tự do. Trong cuộc đổi mới lần thứ nhất, khát vọng thoát nghèo đã giúp chúng ta vượt qua khủng hoảng.

Cái vỗ vai và quyết định lịch sử đưa Internet vào Việt Nam - 34

Thế hệ chúng tôi đã dấn thân, có khát vọng thoát nghèo. Chúng tôi đã cố gắng đưa những cái hay nhất của thế giới về Việt Nam để đất nước thoát khỏi đói nghèo, phát triển lên mức trung bình.

Còn cuộc cách mạng lần này, cuộc “vươn mình” lần này, đòi hỏi cao hơn rất nhiều: Phải hùng cường, thịnh vượng, dân hạnh phúc. 

Thách thức lớn hơn và nhiệm vụ này phải giao cho thế hệ trẻ.

Tôi tin và hy vọng thế hệ trẻ sẽ có khát vọng, dám dấn thân. Không chỉ đưa những cái hay của thế giới về Việt Nam, mà còn phải đưa những sáng tạo, những sản phẩm, dịch vụ, giá trị văn hóa, nghệ thuật, khoa học công nghệ của Việt Nam ra với thế giới.

Nói đến Việt Nam là người ta nhớ đến những thương hiệu quốc gia. Chúng ta phải có những thương hiệu về kinh tế, khoa học công nghệ. Đó là sứ mệnh của thế hệ trẻ. 

Lúc đó, đất nước mới thực sự hùng cường, thịnh vượng và mới thực hiện được lời Bác Hồ dặn: “Sánh vai cùng các cường quốc năm châu”.

Cơ hội thì đang có và chúng ta cũng có những lãnh đạo quốc gia sáng suốt, bản lĩnh để chèo lái, được dân tin tưởng và khích lệ được thế hệ trẻ dấn thân.

Cái vỗ vai và quyết định lịch sử đưa Internet vào Việt Nam - 36

- Thế hệ trẻ Việt Nam rất thông minh. Có một số lượng không nhỏ những người trẻ, ở độ tuổi 25-40, đang làm việc online một cách lặng lẽ cho các công ty nước ngoài tại Việt Nam và đã trở nên thành đạt. Điều này chứng tỏ tiềm năng con người Việt Nam là rất lớn.

Vấn đề là chúng ta cần phải cải cách giáo dục. Phải có một cuộc cách mạng mạnh mẽ hơn nữa trong hệ thống giáo dục. Không chỉ là giáo dục kiến thức, mà đặc biệt quan trọng là giáo dục về nhân cách, về con người. 

Thế hệ chúng tôi khi còn trẻ được thầy cô đã dạy chúng tôi bốn điều về làm người: Tính trung thực, lòng biết ơn, ý thức tập thể và sự dấn thân vì việc chung.

Tôi nghĩ thế hệ trẻ bây giờ cần phải có những điều đó và việc giáo dục con người không phải chỉ của ngành giáo dục, mà của toàn xã hội, từ cha mẹ đến thầy cô.

Thứ hai là công tác bố trí và sử dụng con người. Lâu nay, chúng ta quá quan trọng về lý lịch, quy trình mà chưa đánh giá đúng mức về kết quả công việc, về thực tiễn. Phải đánh giá cán bộ qua những gì anh đã làm, anh đã để lại được gì, chứ không phải qua chức vụ đã kinh qua, phải bổ nhiệm những người đứng đầu đủ bản lĩnh, trong sáng, sạch sẽ, dấn thân vì cái chung. 

Tôi nghĩ đây là vấn đề then chốt. Như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói, thành bại của cuộc “vươn mình” lần này là vấn đề cán bộ, vấn đề của người đứng đầu. Tôi nghĩ điều đó hoàn toàn đúng đắn.

Xin trân trọng cảm ơn Tiến sĩ đã dành thời gian cho cuộc trò chuyện!

Nội dung: Nam Đoàn, Thế Anh

Ảnh: Đỗ Minh Quân

Thiết kế: Vũ Hưng

Nguồn: https://dantri.com.vn/cong-nghe/cai-vo-vai-va-quyet-dinh-lich-su-dua-internet-vao-viet-nam-20250822223329027.htm


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chuyên mục

Tổng hợp luyện A80: Trùng trùng đoàn quân đi trong vòng tay Nhân dân
Cách yêu nước sáng tạo và độc đáo của gen Z
Bên trong nơi diễn ra triển lãm thành tựu 80 năm Quốc khánh 2.9
Toàn cảnh buổi tổng hợp luyện A80 lần đầu tiên tại Quảng trường Ba Đình

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm