
1. Người Quảng Ngãi, từ lâu đã được nghe câu: Quảng Ngãi ơi! Còn nhớ chăng những ngày xưa rực rỡ. Tỏa bóng cờ từ An Tân đến Sa Huỳnh lộng gió. (Quảng Ngãi đất mẹ ngoan cường - Trương Quang Lục).
Hồi đó địa giới hành chính tỉnh Quảng Ngãi từ Bắc xuôi Nam được tính từ Dốc Sỏi (Bình Sơn) vào đến Sa Huỳnh (Đức Phổ). Nhưng khi viết “Quảng Ngãi đất mẹ ngoan cường” - ca khúc được coi là tiêu biểu nhất của tỉnh, nhạc sĩ họ Trương lại viết: Từ An Tân đến Sa Huỳnh lộng gió.
Nhớ năm nào tôi viết bài Núi Thành - Văn hóa biển (sau này tuyển vào tập Gió tự ngàn xa), tôi có trích hai câu do anh Hòa nhân lúc cao hứng, bèn đọc: Thiên thu dân quốc tri ân hậu/ Nhất đoán cơ thành tại Bản Tân.
Sông Bản Tân là tên gọi của ngày trước; sau này còn có những tên khác như: sông Bến Ván, sông An Tân. Sông An Tân gồm hai nhánh nhỏ, một từ Tam Trà chảy xuống, một từ Bình Sơn băng qua xã Tam Nghĩa nhập vào và gặp nhau ở Tam Mỹ, chảy thêm một đoạn nữa rồi đổ vào đầm An Thái, sau đó nối thông ra biển, qua cảng Kỳ Hà.
Sách “Đại Nam nhất thống chí” ghi: “Tấn Bản Tân, cách huyện Hà Đông 52 dặm về phía nam, thủ sở ở ấp An Tân có quan quân canh giữ, xét hỏi những người qua lại…”.
Và địa danh Bản Tân còn gắn với nhiều sự kiện lịch sử quan trọng. Năm 1775, sau trận thua ở Cẩm Sa, quân Nguyễn Nhạc thối lui và rút toàn bộ quân về đóng tại Bản Tân nhằm ngăn chặn quân tướng Hoàng Ngũ Phúc tiến vào. Như vậy Bản Tân là một cứ điểm rất quan trọng.
Sách “Hoàng Lê nhất thống chí” ghi: “Trần Văn Kỷ người Thuận Hóa, vốn có văn học, là bậc danh sĩ ở Nam Hà… Năm 1786, Bắc Bình Vương đánh lấy thành Phú Xuân, sai người tìm Kỷ hỏi việc Nam, Bắc. Kỷ đối đáp rất nhanh và rất hợp ý nên Bắc Bình Vương rất trọng, cho ở vào chỗ “màn trướng”, việc gì cũng bàn với Kỷ, lúc nào cũng gần bên Kỷ, không mấy khi xa rời”…
Như vậy: Thiên thu dân quốc tri ân hậu/Nhất đoán cơ thành tại Bản Tân (Ngàn năm nước nhà và dân tộc biết ơn sâu dày là nhờ sự quyết đoán việc gầy dựng thành công tại Bản Tân) là nhờ tài mưu lược của Trần Văn Kỷ khi đứng ra dàn xếp giữa anh em nhà Nguyễn Tây Sơn tránh khỏi tình trạng chia rẽ nội bộ, thoát cảnh nồi da xáo thịt.
Bằng cách, lấy Bản Tân làm ranh giới: từ Quảng Ngãi trở vào Nam do Nguyễn Nhạc làm chủ; từ Thăng Diện ra Bắc do Nguyễn Huệ làm chủ. Chắc có lẽ vì có câu chuyện lịch sử này nên nhạc sĩ Trương Quang Lục mới mạnh dạn phóng bút: Từ An Tân đến Sa Huỳnh lộng gió… đấy chăng?

2. Một chuyện khác, anh Võ Văn Thắng - cựu Giám đốc Bảo tàng Chăm Đà Nẵng một hôm hỏi tôi, ở Tam Kỳ, người dân còn dùng các từ chừ, ni, mi, mô, tê, răng, rứa… không?
Tôi đáp rằng có. Có vẻ anh vẫn còn hồ nghi… là vì anh đã nhiều lần vào tới các vùng sâu phía trong như Quảng Ngãi, Bình Định… không thấy những từ ngữ ấy xuất hiện. Và có lẽ anh cũng “đoán” Tam Kỳ ắt cũng giống những vùng ở phía trong ấy.
Tôi đáp nhanh với anh rằng, người dân Núi Thành (Quảng Nam) dùng “y chang” các từ và giọng cũng hệt như người dân ở Bình Sơn (Quảng Ngãi).
Tôi có đề xuất với anh một ý: từ và giọng nói ở một vùng thường ảnh hưởng như về một đội quân trụ đóng lâu dài nơi vùng, xứ ấy. Ví dụ đội quân Trung ương Hoàng đế Nguyễn Nhạc đóng ở bờ Nam sông Bản Tân, và đội quân của Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đóng ở bờ Bắc sông Bản Tân, lâu dần thổ ngơi, phong khí ở phía nào thì sẽ ảnh hưởng đến giọng nói người dân của mỗi bên (?).
Cố giáo sư Trần Quốc Vượng từng cho rằng, miền Bắc đặc trưng văn hóa hang động hay văn hóa thung lũng. Bình Trị Thiên là dải không gian tận cùng của các nền văn hóa hang động ấy. Nhưng miền Trung và Bình Trị Thiên lại đặc trưng hóa văn hóa cồn bàu (cồn sò điệp nằm ở bờ biển cổ, bên trên là các bàu nước ngọt, từ Cầu Giát - Quỳnh Lưu xứ Nghệ qua Bàu Khe, Bàu Tró đến Bàu Dũ của xứ Quảng).
Xứ Quảng miền Trung Nam (Quảng Nam, Quảng Ngãi) là quê hương đích thực của văn hóa Sa Huỳnh. Hơn nữa, miền Trung gắn với gò đồi, mang sắc thái trung du, nó còn vang bóng tính phồn tạp của rừng mưa nhiệt ẩm, cây cối mọc lô xô không ngay hàng thẳng lối.
Khi đọc sách “Có 500 năm như thế”, GS.Trần Quốc Vượng “đồng điệu” với tác giả Hồ Trung Tú về giọng Quảng Nam và cho rằng: “Giọng các bà mẹ Chàm nói tiếng Việt, cái giọng ấy đã truyền lại cho con cái để thành giọng Quảng hôm nay”.
Và có không ít bạn đọc đã “đồng tình” với tác giả là trong suốt 500 năm dài (kể từ năm 1306 đến năm 1802 Gia Long lên ngôi), người Chàm - chủ nhân cũ của vùng đất này - đã cùng sinh sống, lập gia đình sinh con đẻ cái, và pha trộn huyết thống trong dòng máu Việt.
Điều ấy có xác đáng hay không thì thử lấy một phương pháp luận cơ bản hay phép phân tích lôgic cũng nên mạnh dạn đưa ra 3 mốc thời gian chính: 1306, 1402, 1471 - đây là những thời điểm xảy ra “dòng chảy rất đều”, không ngừng nghỉ của các đoàn người Nam tiến.
Năm 1306 Chế Mân dâng 2 châu Ô, Rí làm sính lễ để cưới công chúa Huyền Trân, tức là có một cuộc di dân lớn từ vùng đất nam Đèo Ngang trở vào bờ bắc sông Thu Bồn (Quảng Nam).
Năm 1402 Chiêm Thành dâng 2 vùng đất Chiêm Động và Cổ Lũy cho Đại Việt. Cũng từ đây Hồ Quý Ly đã xác lập chủ quyền trên vùng đất mới.
Năm 1471 khi vua Lê Thánh Tông ra Chiếu Bình Chiêm, lúc bấy giờ vùng đất Quảng Nam đã thuộc về Đại Việt vĩnh viễn và cuộc di dân tiếp tục lại theo đoàn quân của vua Lê Thánh Tông tiến vào sâu đến tận đèo Cù Mông (Bình Định).
Giai đoạn 1602 – 1631 là khoảng thời gian di dân mạnh nhất, cũng là lúc chúa Nguyễn đánh Phú Yên và xây lũy Trường Dục. Từ năm 1631 - 1671, hiện tượng di dân chấm dứt vì giai đoạn này Trịnh Nguyễn phân tranh lấy sông Gianh làm ranh giới…
Việc xác định người Việt hòa chung giọng nói, sống chung với người Chàm, quan hệ xóm giềng, vợ chồng… là có thật. Tất cả những điều ấy là vô cùng cần thiết bởi ta sẽ hiểu rõ hơn những gì gọi là bản sắc, cá tính, giọng nói của người Quảng đã bắt đầu như thế nào. Đất Quảng sẽ không giống với những nơi khác vì có sự hỗn dung, tiếp biến văn hóa lẫn ảnh hưởng thổ ngơi của vùng miền...
Nguồn: https://baoquangnam.vn/cau-chuyen-ranh-gioi-tho-ngoi-vung-mien-3157192.html
Bình luận (0)