Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Định vị giá trị làng nghề trong công nghiệp văn hóa: Phát triển bền vững từ tài nguyên di sản

Với hàng nghìn làng nghề truyền thống trải dài từ bắc vào nam, với những đặc trưng riêng biệt, Việt Nam không chỉ sở hữu những di sản văn hóa phong phú mà còn có cơ hội biến những giá trị ấy thành nguồn tài nguyên dồi dào cho phát triển công nghiệp văn hóa, đóng góp tích cực vào sự phát triển bền vững của đất nước.

Báo Nhân dânBáo Nhân dân28/03/2025

Sự kết hợp giữa làng nghề và du lịch góp phần đưa hình ảnh Việt Nam đến gần hơn với bạn bè thế giới như một điểm đến văn hóa độc đáo; đồng thời, các làng nghề còn là nguồn cảm hứng dồi dào cho những ngành sáng tạo hiện đại. Họa tiết từ lụa Vạn Phúc đã xuất hiện trong các bộ sưu tập thời trang cao cấp của nhiều nhà thiết kế Việt Nam và quốc tế. Tranh sơn mài Tương Bình Hiệp được trưng bày trong các triển lãm nghệ thuật ở nước ngoài, trong khi gốm Tân Vạn trở thành nguồn cảm hứng cho các sản phẩm nội thất hiện đại.

Dẫu sở hữu tiềm năng to lớn, các làng nghề truyền thống vẫn đang phải đối diện với nhiều thách thức trong bối cảnh hiện đại hóa và toàn cầu hóa. Đó không chỉ là nguy cơ mai một mà còn là sự biến chất, đánh mất bản sắc vốn có nếu không có chiến lược phù hợp. Đó sẽ là một tổn thất khó có thể bù đắp.

Thời gian qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững của các làng nghề trong ngành công nghiệp văn hóa. Một trong những định hướng lớn là Chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam giai đoạn 2021-2030, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 801/QĐ-TTg ngày 7/7/2022.

Chương trình đặt mục tiêu đến năm 2030 khôi phục, bảo tồn được ít nhất 129 nghề truyền thống và 208 làng nghề truyền thống có nguy cơ mai một, thất truyền; công nhận mới 213 nghề và 96 làng nghề truyền thống; phát triển khoảng 301 làng nghề gắn với du lịch; hơn 80% số làng nghề, làng nghề truyền thống hoạt động có hiệu quả; 100% người lao động trong làng nghề được đào tạo, đào tạo lại, đào tạo nâng cao kỹ năng nghề, kỹ năng vệ sinh an toàn lao động và kiến thức công nghệ thông tin cơ bản; có ít nhất 50% số làng nghề có sản phẩm được bảo hộ sở hữu thương hiệu. Tốc độ tăng giá trị sản xuất bình quân các làng nghề đạt khoảng 10%/năm.

Trước đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định 52/2018/NĐ-CP ngày 12/4/2018 về phát triển ngành nghề nông thôn ưu tiên hỗ trợ các làng nghề có nguy cơ thất truyền, đặc biệt là những làng nghề của đồng bào dân tộc thiểu số. Chính sách khuyến khích phát triển làng nghề gắn với thị trường và hội nhập quốc tế, đồng thời thúc đẩy mô hình sản xuất tuần hoàn, tiết kiệm nguyên liệu và bảo vệ môi trường. Điều này giúp các làng nghề thích ứng với xu hướng phát triển xanh, nâng cao giá trị thương hiệu và đưa sản phẩm thủ công Việt Nam vươn xa hơn.

Nhà nước cũng chú trọng hoàn thiện cơ chế tôn vinh và đãi ngộ nghệ nhân - những “linh hồn” của làng nghề. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp các bộ, ngành xây dựng chính sách hỗ trợ nghệ nhân phát triển nghề nghiệp, tham gia đào tạo và truyền nghề. Việc phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân Nhân dân” hay “Nghệ nhân Ưu tú” không chỉ là sự ghi nhận mà còn là động lực để thế hệ trẻ tiếp nối di sản, góp phần giải quyết bài toán thiếu hụt nhân lực. Tuy nhiên, để các làng nghề thật sự trở thành nguồn lực mạnh mẽ, đóng góp tích cực cho công nghiệp văn hóa, cần sự chung tay của toàn xã hội.

Các làng nghề truyền thống không chỉ là tài sản quý của Việt Nam mà có thể xem như một trong những “chìa khóa vàng” để góp phần thực hiện mục tiêu phát triển công nghiệp văn hóa trong thời đại mới.

Về phía Nhà nước, cần ban hành các chính sách ưu đãi về vốn, đất đai, thuế, khuyến khích các nghệ nhân phát triển nghề, xây dựng các chương trình đào tạo nghệ nhân trẻ một cách hợp lý để bảo đảm sự kế thừa. Tổ chức nhiều hội chợ, chương trình xúc tiến thương mại trong nước và quốc tế giới thiệu sản phẩm thủ công truyền thống, qua đó tạo cầu nối giúp các làng nghề có cơ hội quảng bá, giới thiệu sản phẩm, tìm kiếm thị trường.

Về phía các địa phương, cần có đánh giá cụ thể với các làng nghề để có những chính sách hỗ trợ phù hợp. Về phía các làng nghề cần tăng khả năng thích ứng, thay đổi tổ chức, cấu trúc sản xuất, nâng cao tính gắn kết, hạn chế kiểu hoạt động sản xuất, kinh doanh tự phát, manh mún, nhỏ lẻ, dẫn đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh không cao; phát huy tính chủ động, sáng tạo, tìm hướng đi thích ứng với yêu cầu của xã hội, như việc đa dạng mẫu mã sản phẩm, linh hoạt trong việc tiếp cận ứng dụng công nghệ và tiếp thị sản phẩm, mở rộng thị trường; cần xác định công nghệ số là chìa khóa không thể thiếu, các làng nghề có thể xây dựng các video giới thiệu trên nền tảng mạng xã hội để quảng bá sản phẩm trong nước cũng như quốc tế.

Theo Giáo sư Claus (Đại học Lund, Thụy Điển) cho rằng, quá trình số hóa và áp dụng công nghệ mới là xu hướng quan trọng trong sản xuất tại làng nghề, giúp bảo tồn, duy trì truyền thống và di sản làng nghề và tạo sự kết nối giữa truyền thống, di sản đó và thế hệ trẻ. Bên cạnh đó, việc bảo tồn, phát triển làng nghề truyền thống cần tích hợp văn hóa đa giá trị như kết hợp với du lịch, đưa làng nghề vào hành trình khám phá.

Mỗi làng nghề cần xây dựng thương hiệu riêng, gắn với câu chuyện đặc trưng để tạo dấu ấn. Mặt khác sự hợp tác với các nhà thiết kế, nhà làm phim, nghệ sĩ và doanh nghiệp cũng mở ra cơ hội mới để phát triển làng nghề. Trên thế giới, nhiều quốc gia đã thành công trong việc biến làng nghề truyền thống thành một nguồn lực góp phần phát triển công nghiệp văn hóa, đây có thể xem là những bài học giá trị cho Việt Nam.

Tại Nhật Bản, chính phủ nước này đã bảo tồn nghề làm giấy washi và gốm sứ Arita bằng cách hỗ trợ tài chính cho nghệ nhân, xây dựng thương hiệu quốc gia và kết hợp với du lịch. Du khách đến đây có thể tham gia các workshop làm giấy thủ công hoặc thử sức với nghệ thuật gốm, nâng tầm giá trị trải nghiệm văn hóa.

Ở Italia, ngành thủ công cao cấp như sản xuất da hay thủy tinh Murano trở thành biểu tượng nhờ gắn sản phẩm với câu chuyện thương hiệu, biến mỗi món đồ thành một tác phẩm nghệ thuật có giá trị cao trên thị trường toàn cầu. Hàn Quốc cũng khéo léo đưa các làng nghề như làng gốm Incheon, làng nghề giấy truyền thống Jeonju, làng cổ Hahoe chuyên làm mặt nạ,... vào phim ảnh và K-pop, thu hút sự chú ý của giới trẻ và du khách quốc tế.

Các làng nghề truyền thống không chỉ là tài sản quý của Việt Nam mà có thể xem như một trong những “chìa khóa vàng” để góp phần thực hiện mục tiêu phát triển công nghiệp văn hóa trong thời đại mới. Với sự đầu tư đúng đắn, sự đồng hành, chung tay của Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng, cùng việc học hỏi kinh nghiệm quốc tế, Việt Nam hoàn toàn có thể biến các làng nghề thành một điểm nhấn quan trọng, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững từ những giá trị truyền thống. Hành trình ấy không chỉ là trách nhiệm mà còn là niềm tự hào của mỗi người Việt trong nỗ lực gìn giữ và lan tỏa bản sắc dân tộc ra thế giới.

>> Giá trị lớn về văn hóa và kinh tế

Nguồn: https://nhandan.vn/phat-trien-ben-vung-tu-tai-nguyen-di-san-post868221.html


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Truyền thuyết về đá Voi Cha, đá Voi Mẹ ở Đăk Lăk
Ngắm phố biển Nha Trang từ trên cao
Điểm check in cánh đồng điện gió Ea H'leo, Đắk Lắk gây bão mạng
Hình ảnh Việt Nam "Bling Bling" sau 50 năm thống nhất đất nước

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm