Kinh tế tư nhân tạo việc làm cho hơn 80% lao động

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, khu vực kinh tế tư nhân hiện đóng góp xấp xỉ 50% GDP. Trong đó, DN đăng ký chính thức đóng góp hơn 10% GDP, khu vực hộ kinh doanh cá thể, cá nhân kinh doanh khác chiếm khoảng 40% GDP. 

Theo TS Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Việt Nam, kinh tế tư nhân đóng vai trò quyết định tới tốc độ tăng trưởng GDP. Trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội dự kiến đạt 174 tỷ USD vào năm 2025, đầu tư tư nhân sẽ đóng góp khoảng 96 tỷ USD, tương đương 56%. Đầu tư công sẽ chỉ đóng góp khoảng 36 tỷ USD, khu vực FDI khoảng 28 tỷ USD, và đầu tư khác khoảng 14 tỷ USD. 

“Như vậy, chỉ cần đầu tư của kinh tế tư nhân tăng 1% sẽ mang lại mức tăng về giá trị tuyệt đối tương đương với việc đầu tư công phải tăng 2,5% và đầu tư nước ngoài phải tăng 3,5%”, TS Lê Duy Bình nói.

AB bank (22).jpg
Kinh tế tư nhân đang ngày càng đóng vai trò quan trọng. 

Tuy nhiên, theo TS Nguyễn Đình Cung - nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) - DNTN vẫn phát triển thụ động và đối mặt với nhiều rào cản, trong đó lớn nhất là thể chế. 

“Trong bối cảnh mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc thì một chiến lược rõ ràng để phát triển kinh tế tư nhân là điều tất yếu. Chiến lược này phải xác định sứ mệnh của kinh tế tư nhân là lực lượng tiên phong, chủ lực trong thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong thực hiện những công trình quan trọng của quốc gia nhằm nâng cao vị thế, năng lực cạnh tranh, sức chống chịu của nền kinh tế”, TS Nguyễn Đình Cung nói.

TS Cung nhấn mạnh hai trụ cột để phát triển DNTN. Thứ nhất là cải cách thể chế. Phải tháo được “điểm nghẽn của điểm nghẽn”, tạo “đột phá của đột phá”. 

“Hệ thống pháp luật thiên về quản lý, “không quản được thì cấm”, tức “năng lực hiểu biết của cơ quan nhà nước đến đâu thì mở cho làm đến đó”, cần phải được chuyển sang một hệ thống pháp luật thông thoáng, tạo môi trường thực sự tự do kinh doanh, thực sự tự do sáng tạo, kinh doanh bình đẳng với một chi phí tuân thủ thấp, không gặp rủi ro pháp lý trong hoạt động kinh doanh”, TS Cung nhấn mạnh. 

Trụ cột thứ hai, về phần vốn từ doanh nghiệp, cần tạo cho DNTN một môi trường tiếp cận vốn, đất đai, KHCN, dữ liệu… kịp thời, đủ lớn về quy mô và đồng bộ để họ bứt phá lên một cấp độ mới, từ siêu nhỏ đến vừa, vừa đến lớn - một ngưỡng rất khó của doanh nghiệp.

Số liệu của Tổng cục Thống kê, trong số 940.000 DN đang hoạt động, có đến 97% vẫn là DN nhỏ và siêu nhỏ. Tỷ lệ DN lớn và DN quy mô vừa mỗi bên chỉ chiếm 1,5%.

TS. Lê Duy Bình cho rằng việc thiếu DN cỡ vừa cho thấy có rất ít DN nhỏ đã lớn lên để trở thành DN quy mô vừa, từ đó ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của khu vực DN nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung. Nguyên nhân là do hạn chế về hiệu quả hoạt động, thiếu năng lực và động cơ phát triển, cũng như do những khó khăn của môi trường kinh doanh bên ngoài.

Bên cạnh đó, tính phi chinh thức của khu vực kinh tế tư nhân còn rất cao. Hiện có tới hơn 5 triệu hộ kinh doanh cá thể, hàng trăm ngàn cá nhân kinh doanh, buôn bán, sản xuất nhỏ lẻ không đăng ký kinh doanh. 

Để thúc đẩy sự phát triển của DNTN, cần có các chính sách khuyến khích các đối tượng này chuyển đổi thành DN, để các DNNVV chuyển đổi thành DN quy mô lớn hơn, để các DN lớn nâng cao được năng lực và trở thành động lực, hạt nhân tăng trưởng của một ngành, một khu vực.

Cần những quyết sách mạnh mẽ

Để kích hoạt tiềm năng to lớn của khu vực kinh tế tư nhân, Giám đốc Economica Việt Nam đề xuất cần có những quyết sách để nuôi dưỡng tinh thần DN, để quyền tự do kinh doanh được củng cố mạnh mẽ hơn nữa và doanh nghiệp thực sự được phép tự do làm những điều pháp luật không cấm. 

Những quyết sách đó sẽ tạo nền tảng để quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh của người dân và doanh nghiệp tiếp tục được khẳng định. Phương thức điều hành của cơ quan quản lý dựa nhiều vào các nguyên tắc, công cụ thị trường hơn là các quyết định hành chính. 

A58I6502.jpg
Ảnh minh hoạ (Lê Anh Dũng).

Các quyết sách đối với khu vực kinh tế tư nhân cần đưa ra định hướng để hệ thống pháp luật cần được xây dựng theo hướng không chỉ phục vụ mục tiêu quản lý của cơ quan nhà nước, mà còn đóng vai trò kiến tạo để khơi thông nguồn lực, xây dựng một môi trường kinh doanh thuận lợi, an toàn, chi phí thấp và tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế. 

Hệ thống pháp luật sẽ khuyến khích doanh nghiệp đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển (R&D), đầu tư vào KHCN, ứng dụng đổi mới sáng tạo. Điều này đồng nghĩa với việc cần thiết lập các cơ chế pháp lý hỗ trợ các hoạt động có mức độ rủi ro cao nhưng mang lại lợi ích đột phá về năng suất và công nghệ. 

Cũng theo TS Bình, hệ thống pháp luật cần khuyến khích được tinh thần đầu tư mạo hiểm, dám chấp nhận rủi ro và hình thành được hệ sinh thái để hỗ trợ cho các dự án đầu tư mạo hiểm, các ý tưởng kinh doanh của DN.

“Coi kinh tế tư nhân là trụ cột chính và động lực chính cũng góp phần nâng cao năng lực nội sinh, củng cố vị thế tự lực, tự cường của nền kinh tế. Hoài bão về một đất nước Việt Nam thịnh vượng, phồn vinh, hùng cường và tự chủ về kinh tế cũng sẽ gần hơn, khả thi hơn, dễ được hiện thực hoá hơn khi có sự chung tay của khu vực kinh tế tư nhân trong nước”, TS Lê Duy Bình nêu quan điểm.