Những tín hiệu tích cực
Năm 2024, Thủ tướng Chính phủ đã chủ trì Hội nghị toàn quốc để lắng nghe ý kiến của các DN, hiệp hội ngành nghề, báo cáo của Bộ Xây dựng và các bộ, ngành, địa phương về thực trạng ngành VLXD nước ta và phân tích, đánh giá tình hình thực tế để chỉ đạo các nhiệm vụ cần phải thực hiện. Trên cơ sở các kết quả trao đổi thống nhất tại hội nghị, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 28/CT-TTg ngày 26/8/2024 về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy sản xuất, tiêu thụ xi măng, sắt, thép và VLXD.
Trong đó, rà soát cơ chế, chính sách, thể chế để khuyến khích đầu tư phát triển ngành VLXD nhanh và bền vững, phục vụ sản xuất kinh doanh của DN, góp phần vào phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Cơ cấu lại thời hạn trả nợ, điều chỉnh giảm mặt bằng lãi suất cho vay; nghiên cứu điều chỉnh chính sách thuế về xuất khẩu sản phẩm clanhke xi măng để bảo đảm tính cạnh tranh với các nước cùng xuất khẩu mặt hàng này, đồng thời phù hợp với Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) về việc không đánh thuế xuất khẩu hàng hóa đối với các nước đã ký...
Sau khi Chỉ thị số 28/CT-TTg ban hành, nhiều địa phương đã ban hành kế hoạch, chương trình thực hiện các nhiệm vụ được giao; khối DN đã tích cực chủ động thực hiện các giải pháp tiết kiệm năng lượng, nguyên nhiên liệu, chi phí đầu vào sản xuất, tiết giảm chi phí những khâu trung gian để nâng cao năng lực, khả năng cạnh tranh và tìm kiếm mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời, các bộ, ngành đã vào cuộc tích cực rà soát, nghiên cứu hoàn thiện cơ chế, chính sách để triển khai các nhiệm vụ được giao tại Chỉ thị số 28/CT-TTg.
Bộ Xây dựng đã ban hành Thông tư số 10/2024/TT-BXD về quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa VLXD nhằm tăng cường công tác quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa trong các hoạt động sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, lưu thông trên thị trường và trong quá trình sử dụng.
Từ đó, sàng lọc và phân biệt rõ các sản phẩm, hàng hóa VLXD chất lượng tốt và các loại chất lượng chưa tốt để quản lý chính xác, hiệu quả hơn từng nhóm đối tượng. Khuyến khích nâng cao sản xuất, tiêu thụ các sản phẩm, hàng hóa VLXD chất lượng tốt và xử lý vi phạm (nếu có) kịp thời đối với các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh các sản phẩm, hàng hóa VLXD chất lượng không đảm bảo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; quy định cụ thể, minh bạch phân biệt các sản phẩm, hàng hóa VLXD (nhóm 2) có khả năng gây mất an toàn về chất lượng công trình, sức khỏe, môi trường với các sản phẩm VLXD thông thường không có khả năng gây mất an toàn (nhóm 1) và liên thông với pháp luật về hải quan (áp mã hàng hóa, áp mức thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu...).
Sức tiêu thụ của thị trường sẽ tăng
Theo báo cáo, năm 2024, tổng năng lực sản xuất các VLXD chủ lực của Việt Nam đã tăng trưởng đạt khoảng 120 triệu tấn xi măng, 830 triệu m2 gạch ốp lát, 26 triệu sản phẩm sứ vệ sinh, 330 triệu m2 kính xây dựng, 20 tỷ viên gạch đất sét nung, 12 tỷ viên gạch không nung (quy tiêu chuẩn). Trong đó, sản lượng xi măng, gạch ốp lát thuộc nhóm top đầu trên thế giới, chất lượng VLXD đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế. Tổng giá trị doanh thu hàng năm ngành VLXD bao gồm thép xây dựng ước đạt khoảng 50 tỷ USD, chiếm gần 12% GDP quốc gia.
Tuy nhiên, tình hình thế giới và khu vực diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường có thể gây ra những tác động đến sản xuất, kinh doanh VLXD. Nhất là sự phát triển vượt bậc của khoa học và công nghệ đang đặt ra đòi hỏi phải đẩy mạnh sản xuất chế tạo các vật liệu tiên tiến, vật liệu tính năng cao hơn, vật liệu thân thiện với môi trường...
Trưởng phòng Nghiên cứu và Phát triển sản phẩm Công ty CP Đầu tư và Thương mại quốc tế VCC Nguyễn Hải Nam chia sẻ, ngành Xây dựng Việt Nam đã và đang đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế quốc gia. Tuy nhiên, hoạt động xây dựng cũng gây ra nhiều tác động tiêu cực đến môi trường khi chiếm 38% lượng phát thải toàn cầu, việc sử dụng xi măng và các chất kết dính như formaldehyde và PU là tác nhân góp phần gây ô nhiễm không khí, vì vậy tìm đến các giải pháp xanh là tất yếu.
Hiện DN đang nghiên cứu và phát triển loại keo lignin (là một polymer hữu cơ, chiếm 10 - 30% sinh khối thực vật), một giải pháp thay thế bền vững, giúp giảm phát thải CO2 trong quá trình sản xuất, tận dụng nguồn phế phẩm công nghiệp giấy và ứng dụng đa dạng trong ngành Xây dựng như công nghiệp gỗ ép, công nghiệp giấy và bao bì, xây dựng, xi măng, công nghiệp dệt nhuộm, trồng trọt chăn nuôi…
"Việt Nam có nguồn nguyên liệu lignin dồi dào từ ngành bột giấy và sinh khối nhằm phát triển công nghệ keo nội địa. Cho nên, cần có sự hợp tác giữa DN - Nhà nước và viện nghiên cứu để đưa keo lignin vào sản xuất hàng loạt, giảm chi phí và thúc đẩy ngành Xây dựng xanh” - ông Nguyễn Hải Nam cho biết.
Về nhu cầu thị trường, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ, Môi trường và Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng) Lê Văn Kế cho biết, trong năm 2025 và các năm tới, nước ta sẽ tiếp tục triển khai xây dựng hệ thống đường cao tốc Bắc - Nam với mục tiêu đạt 3.000km đến hết năm 2025, đạt 5.000km đến hết năm 2030 và khoảng 9.000km đến hết năm 2050; các công trình, dự án giao thông trọng điểm quốc gia như đường Hồ Chí Minh, Vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội, Vành đai 3, 4 TP Hồ Chí Minh, đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam, các tuyến đường sắt đô thị, Cảng hàng không quốc tế Long Thành; nhiều dự án về năng lượng, thủy lợi, thủy nông, các khu công nghiệp, khu kinh tế, các công trình hạ tầng xã hội đô thị và khu vực nông thôn như trường học, bệnh viện, trung tâm vui chơi giải trí, các khu nghỉ dưỡng, khách sạn, nhà hàng...; xây dựng ít nhất 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp và các chương trình, dự án xây dựng nhà ở khác, cùng với nhu cầu rất lớn về nhà ở của người dân;... sẽ có nhu cầu rất lớn về VLXD.
Với các giải pháp đồng bộ tiếp tục được triển khai theo Chỉ thị số 28/CT-TTg về hoàn thiện cơ chế chính sách; áp dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi sản xuất của ngành, nhất là sản xuất xanh; thúc đẩy thị trường trong đó chú trọng chống buôn lậu, gian lận thương mại, chống hàng giả, hàng nhái; mở rộng thị trường cả trong và ngoài nước... Vì vậy, có thể dự báo thị trường tiêu thụ các sản phẩm, hàng hóa VLXD trong thời gian tới sẽ tăng lên để đáp ứng nhu cầu xây dựng trong nước và đồng thời xuất khẩu ra thị trường các nước khác trên thế giới.
Mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam hoàn thành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực ASEAN về công nghiệp. Giai đoạn 2030 - 2045, tập trung ưu tiên phát triển các thế hệ mới của ngành Công nghệ thông tin và viễn thông, thiết bị cao cấp, vật liệu mới, công nghệ sinh học. Tầm nhìn đến 2045, Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển hiện đại.
Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ, Môi trường và Vật liệu xây dựng, Bộ Xây dựng Lê Văn Kế
Nguồn: https://kinhtedothi.vn/don-bay-chinh-sach-ho-tro-nganh-vat-lieu-xay-dung.html
Bình luận (0)