Những ngày tháng rực lửa năm 1973, sân bay Bạch Mai vang vọng tiếng động cơ ầm ào chuẩn bị cho lễ duyệt binh, nhưng trong lòng người lính trẻ Trần Công Thắng (SN 1946, Hà Nội), chỉ có một thanh âm duy nhất - nhịp tim dồn dập vì sắp được gặp lại người con gái mình yêu.
Đạp chiếc xe cũ kỹ giữa cái nắng gay gắt, ông mang theo sự hồi hộp khi sau 6 năm chiến tranh, bom đạn chia lìa, ông gặp lại người yêu - bà Nguyễn Thị Nguyệt Ánh (SN 1948, Hưng Yên) - nữ lái xe Trường Sơn.
Dừng lại trước cổng doanh trại, ông Thắng nhờ người cảnh vệ nhắn giúp muốn gặp cô Ánh - lái xe Trường Sơn. Bên trong, khi vừa nghe tin có người tìm, bà Ánh hối hả chạy ra, hơi thở gấp gáp, bàn tay siết chặt vạt áo.
Trên sân tập rộng lớn, bóng lưng quen thuộc năm nào đứng quay lưng lại. "Anh Thắng!", tiếng bà Ánh vang lên. Ông Thắng đôi vai run lên, quay lại.
"Lúc ấy toàn thân tôi run rẩy, 6 năm bao nhiêu lần suy nghĩ đến khoảnh khắc gặp lại tôi sẽ trao cho cô ấy một nụ hôn, nhưng khi thật sự đứng trước mặt nhau ngoại trừ tim đập nhanh, chân tay lóng ngóng không biết làm gì", ông Thắng cười nói.
Chàng công binh nhìn sâu trong đôi mắt ngấn lệ của người yêu, khóe mắt cũng cay xè. Sáu năm chờ đợi, những lá thư gửi đi không hồi đáp, những lần suýt bỏ mạng nơi chiến trường - tất cả vỡ òa trong giây phút ấy.
Ông nhẹ nhàng hỏi "Em còn yêu anh không?", bà Ánh nghẹn ngào, nắm lấy bàn tay người đàn ông thật chặt.
Tiếng đồng đội vây quanh reo hò, nhưng trong khoảnh khắc đó, chỉ có hai người nghe thấy tiếng tim nhau đập. Bẽn lẽn gật đầu, bà để mặc mình được kéo vào vòng ôm vững chãi. Họ đã đi qua bao năm tháng gian khổ, nhưng tình yêu vẫn chưa từng phai nhạt.
Nửa thế kỷ trôi qua, ông Thắng siết nhẹ bàn tay vợ, đôi mắt già nua vẫn ánh lên tình cảm như ngày nào.
"Ngày hôm ấy tôi không dám chắc phần thắng rằng cô ấy còn chờ tôi, vì thanh xuân của người con gái ngắn ngủi, còn tôi lại không rõ sống chết", ông Thắng nói.
Ông Thắng và bà Ánh đã nên duyên vợ chồng 51 năm (Ảnh: Nguyễn Ngoan).
Tình yêu nảy nở từ đêm văn nghệ
Bà Ánh là con gái thứ hai trong một gia đình nhà giáo đông con ở Hưng Yên. Từ nhỏ, bà đã quen với cảnh bố và chị gái đi dạy xa, một mình vừa giúp mẹ làm ruộng, vừa chăm sóc đàn em.
Năm 1965, khi giặc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc, lòng yêu nước và căm thù giặc bùng cháy trong cô gái trẻ. Bà Ánh quyết tâm gia nhập thanh niên xung phong, mong góp sức bảo vệ Tổ quốc.
Tháng 9/1965, mang theo quyển sổ bố tặng, bà lên đường nhập Đại đội 9, Tổng đội 59, đóng quân tại công trường 130 Yên Bái. Ở tuổi 17, bà nhận nhiệm vụ xây nhà cho chuyên gia Trung Quốc - những người giúp Việt Nam dựng sân bay dã chiến.
Trong khói lửa chiến tranh, giữa những ngày bom đạn dội xuống nhằm phá hoại sân bay, bà Ánh gặp chàng công binh Trần Công Thắng trong một đêm văn nghệ, rồi nên duyên.
Ông Thắng và bà Ánh nên duyên từ một đêm văn nghệ (Ảnh: Nguyễn Ngoan).
Ông Thắng vốn là công nhân nhà máy y cụ Hà Nội. Năm 1965, khi nhà máy tuyển chọn 10 công nhân ra chiến trường, ông tình nguyện lên đường. Đầu năm 1966, sau 3 tháng huấn luyện, ông gia nhập Trung đoàn 251 công binh, cùng các lực lượng khác xây dựng sân bay dã chiến ở Yên Bái.
"Doanh trại của tôi và vợ chỉ cách nhau vài trăm mét", ông Thắng nhớ lại.
Lần đầu gặp bà Ánh vào cuối năm 1966, ông đang chờ đến lượt biểu diễn trong hội diễn văn nghệ của trung đoàn thì ra cổng doanh trại. Thấy bà Ánh cùng hai cô gái khác lấp ló bên ngoài, ông đến hỏi chuyện mới biết họ muốn vào xem nhưng bị cảnh vệ chặn lại. Chàng công binh giúp đỡ đưa ba cô gái vào trong. Sau khi biểu diễn xong, ông tìm đến trò chuyện, bị thu hút bởi bà Ánh.
"Bà ấy cao ráo, đôi mắt sáng lấp lánh, thời đó con gái cao như vậy không nhiều", ông Thắng kể.
Hai năm đóng quân xây dựng sân bay Yên Bái, cứ tối cuối tuần, ông Thắng lại đi bộ sang đơn vị của bà Ánh để gặp. Lần đầu biết yêu, chàng trai Hà Nội không biết nói những lời bay bổng, câu chuyện của họ chỉ xoay quanh gia đình, thăm hỏi sức khỏe. Những đợt bận việc, không gặp được bạn gái, ông Thắng lấy giấy poluya (giấy chống ẩm) mang từ Hà Nội ra viết thư, nhờ đồng đội cầm sang.
"Tôi gửi cho bà ấy 40 bức thư tình", ông Thắng chia sẻ.
Tuy nhiên vài lần tỏ tình ông đều bị từ chối, vì ngày ấy bà Ánh chỉ muốn làm xong nhiệm vụ, về quê lấy chồng gần nhà.
Không nản lòng, ông Thắng kiên trì viết thư, tìm mọi cách quan tâm. Mưa dầm thấm lâu, sau hơn một năm, tình cảm chân thành của ông khiến bà xiêu lòng.
Một bức thư tình ông Thắng viết cho bà Ánh năm 1968 (Ảnh: Nhân vật cung cấp)
"Có lần cả tuần tôi không viết thư, bà ấy quần xắn quá đầu gối, chân lội bùn lầy sang trung đoàn tìm, trông vừa thương, vừa buồn cười", ông Thắng kể, sau lần đấy ông tỏ tình thành công với cô gái mình yêu.
"Hồi ấy, kỷ luật quân đội nghiêm ngặt lắm. Trong lán phải có ít nhất ba, bốn người, ngồi cách xa nhau, không được tắt đèn. Hai người yêu chỉ kịp nói dăm ba câu, chứ đâu có chuyện nắm tay hay ôm hôn như giới trẻ bây giờ", ông Thắng nhớ lại.
Vì thế, suốt những năm yêu nhau ở Yên Bái, họ chẳng có nổi một nụ hôn - điều mà sau này ông vẫn tiếc nuối khi bước vào chiến trường Quảng Trị.
Chưa kịp bên nhau được bao lâu, đầu năm 1968, đơn vị ông bất ngờ nhận lệnh hành quân gấp vào Quảng Trị. Trước khi đi, ông vượt đường rừng trong đêm để gặp người yêu. Cuộc gặp gỡ vội vàng, bịn rịn.
Bà Ánh nghẹn ngào dúi vào tay ông chiếc khăn quàng cổ, cái bấm móng tay và chiếc bật lửa, dặn: "Anh giữ lấy, để sau này gặp lại còn có kỷ vật làm tin". Họ chia tay mà chẳng biết ngày nào gặp lại.
"Năm ấy, chiến tranh ác liệt, chẳng ai dám nghĩ đến ngày trở về. Vậy mà không hiểu sao, tôi vẫn cứ chờ đợi…", bà Ánh nhớ lại lời hứa trong rừng cọ năm nào.
Trên đường hành quân vào chiến trường, nỗi nhớ người yêu da diết khiến ông Thắng không ngừng cầm bút, viết những dòng thư gửi gắm tâm tư. Nhưng thời ấy, đường vào chiến trường hiểm trở, không có ai để nhờ gửi thư.
Ông đành ghi địa chỉ lên mỗi lá thư, rồi ném dọc đường, mong rằng có người nhặt được sẽ giúp chuyển đến tay người thương.
Đơn vị ông Thắng hoạt động sâu trong đất Lào, nhiệm vụ chính là lái máy ủi, san đường, lấp hố bom, đảm bảo giao thông không bị chia cắt.
Ít tháng sau khi người yêu vào chiến trường bà Ánh tham gia đội nữ lái xe Trường Sơn (Ảnh: Nguyễn Ngoan).
"Hai người chung một máy, người này nằm xuống thì người kia thay. Bom vừa dứt, chúng tôi lại lao ra san lấp. Nhưng Mỹ thường thả bom B52 hai đợt liên tiếp, cách nhau chỉ vài chục phút. Nhiều lần, đang san đường thì bom lại trút xuống, may mắn thì kịp chạy, không may thì thương vong", ông Thắng nhớ lại những ngày ác liệt.
Bom đạn liên tục, sống chết chỉ cách nhau một cái chớp mắt, nhưng ông Thắng chưa bao giờ sợ hãi, vì trong tim luôn có một hình bóng làm động lực để ông cố gắng đến ngày trở về là bà Ánh.
Mỗi khi bom ngừng, ông lại viết thư cho người yêu, dù chẳng biết có gửi đến nơi hay không.
"Những lá thư được gửi qua đường giao liên, nhưng tôi không dám chắc chúng có thể đến tay người yêu. Nhiều chuyến đi, người vận chuyển hy sinh, thư bị bom đạn thiêu rụi. Vì thế, trước mỗi lần gửi, tôi đều cẩn thận chép lại nội dung vào cuốn sổ tay, để nếu có ngày gặp lại, có thể đưa cho người yêu xem", ông Thắng chia sẻ.
Có lần, một trận bom B52 đánh sập hầm, ông Thắng bị thương do sức ép nhưng vẫn tỉnh. Đồng đội vội khiêng ông đến đội điều trị. Chỉ còn cách trạm mấy trăm mét, loạt bom thứ hai bất ngờ khai hỏa. Ông rơi xuống suối cạn, nhưng hai lần bom không thể cướp đi mạng sống của người công binh.
Trong mắt bà Ánh ông Thắng luôn là người yêu, người chồng tuyệt vời nhất (Ảnh: Nguyễn Ngoan).
Bông hồng thép trên đường Trường Sơn
Khi ông Thắng đang chiến đấu giữa mưa bom bão đạn trên đất Lào, chiến sự Tết Mậu Thân 1968 ngày càng ác liệt.
Mỹ huy động lượng lớn máy bay đánh phá các tuyến đường trọng yếu, trong khi nhu cầu chi viện cho chiến trường trở nên cấp bách. Lái xe nam không đủ, Bộ Tư lệnh Đoàn 559 giao nhiệm vụ cho Binh trạm 9 và Binh trạm 12 tuyển gấp những cô gái trẻ, khỏe, tháo vát đào tạo cấp tốc.
Vài tháng sau khi người yêu vào chiến trường, bà Ánh cũng xung phong gia nhập trung đội nữ lái xe Trường Sơn.
Từ khắp các vùng quê, 40 nữ thanh niên xung phong, tuổi từ 18 đến 20, hội tụ trong khóa huấn luyện 45 ngày tại Trường lái 255 (nay là Trường Trung cấp Kỹ thuật xe - máy Sơn Tây). Ngày 18/12/1968, tại vùng rừng núi xã Hương Phổ, huyện Hương Khê (Hà Tĩnh), trung đội nữ lái xe mang tên nữ anh hùng Nguyễn Thị Hạnh ra đời.
"Nhiệm vụ của chúng tôi là vận chuyển lương thực, thuốc men, vũ khí, đạn dược từ Vinh (Nghệ An) qua các tuyến đường 12, 15, 18, 20, 22 đến bờ bắc sông Gianh (Quảng Bình). Giao hàng xong, lại chở thương binh và cán bộ từ miền Nam ra Bắc. Có những chuyến đặc biệt, đội xe còn tiến sâu vào chiến trường, thậm chí sang đất Lào", bà Ánh nói.
Các nữ tài xế lái xe suốt đêm, từ 17h đến 5h hôm sau. Để tránh máy bay địch, họ phải chặt lá ngụy trang, sử dụng ánh sáng từ bóng đèn quả nhót dưới gầm xe.
Trường Sơn thời ấy là bãi thử nghiệm bom đạn, hóa chất của Mỹ, kèm theo gió Lào bỏng rát khổ không nói nên lời. Các nữ xế chủ yếu men theo sườn núi phía Tây Trường Sơn, nơi chỉ cần lệch tay lái một chút là rơi xuống vực thẳm.
"Bom, pháo sáng thả liên tục, nhưng may mắn mình đều vượt qua hoàn thành nhiệm vụ. Hỏi có sợ chết không thì tôi sợ lắm, nhưng thứ sợ hơn là không đưa được vật tư vào chiến trường cho các chiến sĩ", bà Ánh nói.
Bà Ánh vui vẻ chia sẻ về bức ảnh đầu tiên chụp chung cùng ông Thắng (Ảnh: Nguyễn Ngoan).
Cuộc gặp sau 6 năm xa cách
Một lần, có người bộ đội cùng quê bà Ánh đi ngang qua chỗ ông Thắng đóng quân. Qua trò chuyện, ông hay tin người yêu mình tham gia đội nữ lái xe Trường Sơn. Ông vừa mừng vừa lo - mừng vì biết bà vẫn khỏe mạnh, nhưng cũng thấp thỏm vì sợ bom đạn chiến trường có thể cướp đi người con gái ông yêu.
Từ ngày đó, mỗi lần có đoàn xe chạy vào tiếp viện, ông Thắng đều mong ngóng, hy vọng có thể gặp lại bà. Nhưng suốt những năm dài, không chuyến xe nào mang đến hình bóng người ông chờ đợi. Những lần đồng đội ra Bắc công tác hay có dịp đi ngang qua trung đội nữ lái xe, chàng công binh đều nhờ họ gửi lời hỏi thăm bà Ánh.
Ông Thắng, bà Ánh được biết đến với chuyện tình đẹp như phim (Ảnh: Nguyễn Ngoan).
Đầu năm 1972, khi đơn vị dự đoán sắp có trận đánh lớn, ông viết một lá thư dài gần 10 trang, dặn bà nếu có điều kiện, hãy tìm một người khác để gửi gắm cuộc đời. Ông không biết chiến tranh sẽ kéo dài bao lâu, cũng không dám chắc mình có thể trở về.
Năm 1973, trong một chuyến công tác từ Quảng Trị ra Bắc, ông Thắng về thăm nhà và nghe tin bà Ánh đang ở Hà Nội, đóng quân tại sân bay Bạch Mai để tập diễu binh mừng ngày ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Không chần chừ, ông vội mượn xe đạp của cha, chạy một mạch đến sân bay, xin gặp chiến sĩ Nguyễn Thị Nguyệt Ánh.
"Trung úy Phương về kìa", đồng đội của bà Ánh hét lớn. Họ chưa từng gặp ông Thắng nhưng xem qua ảnh thấy có nét mặt giống diễn viên Thế Anh trong bộ phim Nổi gió nên đặt biệt danh là "trung úy Phương".
Gặp lại nhau sau 6 năm xa cách ông Thắng sợ người yêu đã có tình mới. Tuy nhiên, suốt những năm tháng chiến tranh, dù có không ít người theo đuổi, bà Ánh từ chối tất cả, chỉ vì lời hứa với ông Thắng. Khi biết bà vẫn đợi mình, ông không kìm được xúc động.
Dù tìm lại được người yêu, ông vẫn phải quay lại Quảng Trị tiếp tục chiến đấu. Mãi đến tháng 7/1974, ông mới xin phép đơn vị về quê cưới vợ. Họ có một đám cưới giản dị bên gia đình và người thân.
Thời đó không có máy ảnh tốt như bây giờ, nên một tuần sau đám cưới, hai vợ chồng mới ra tiệm chụp một tấm ảnh kỷ niệm.
Chỉ một tháng sau, ông Thắng lại trở vào chiến trường Quảng Trị. Họ tiếp tục sống xa nhau, người Bắc, người Nam - cho đến năm 1977, khi bà Ánh vào Quảng Trị xin đơn vị cho chồng được chuyển ra Hà Nội để chăm lo gia đình.
51 năm bước ra khỏi chiến trường, cặp vợ chồng già vẫn vẹn nguyên tình yêu như ngày đầu (Ảnh: Nguyễn Ngoan).
Suốt những năm đầu sau cưới, bà Ánh mãi không mang thai. Ông Thắng lo lắng, sợ những năm tháng chiến đấu ở chiến trường, chịu sốt rét và ảnh hưởng của chất độc hóa học, đã khiến mình vô sinh. Nhưng may mắn, sau ba năm, họ đón cô con gái đầu lòng. "Chúng tôi may mắn có đủ nếp đủ tẻ, một trai, một gái", bà Ánh kể lại.
Sau này, bà Ánh xin vào Bộ Tài chính, lái xe cho các Thứ trưởng. Hơn 10 năm sau, vì sức khỏe yếu, bà chuyển sang công tác hành chính rồi nghỉ hưu năm 2003. Ông Thắng cũng nghỉ hưu cùng năm đó.
Giờ đây, ở tuổi gần 80, trải qua 51 năm gắn bó, họ thừa nhận không tránh khỏi những lúc mâu thuẫn, nhưng chưa bao giờ to tiếng với nhau. Hai người bạn già hằng ngày cùng nhau đi chợ, nấu cơm, uống trà tâm sự chuyện xưa.
Những lúc rảnh rỗi, ông Thắng chở vợ đi thăm bạn bè, đồng đội ở Hà Nội. Thi thoảng, hai ông bà lại trở về thăm chiến trường xưa.
Dantri.com.vn
Nguồn:https://dantri.com.vn/doi-song/gap-nu-lai-xe-truong-son-va-chang-cong-binh-tung-viet-40-buc-thu-to-tinh-20250325123312211.htm
Bình luận (0)