Người dân vùng cao Nam Trà My an cư, ổn định cuộc sống ở những mặt bằng an toàn. Trong ảnh: Làng Lâng Loan, xã Trà Cang. Ảnh: HỒ QUÂN
Nhìn từ Nam Trà My
Chuyến công tác vùng cao lần trước, chúng tôi có dịp khảo sát các khu vực sạt lở cùng anh Phùng Bá Nghĩa - cán bộ Địa chính - Xây dựng xã Trà Tập. Trò chuyện với anh trên đường đi mới hiểu hết những vất vả, trăn trở của những người luôn canh cánh nỗi lo an cư cho nhân dân vùng cao.
Trà Tập bốn bề núi, việc tìm kiếm vị trí định cư an toàn chẳng dễ dàng. San ủi mặt bằng, can thiệp vào tự nhiên chưa bao giờ là giải pháp tối ưu.
Năm ngoái, làng Lăng Lương đối diện nguy cơ sạt lở, địa phương phải họp dân, tham khảo ý kiến ngành chuyên môn rất nhiều lần mới chọn được vị trí phù hợp. Có nguồn lực, sẵn sàng lực lượng hỗ trợ, nhưng vẫn “bất lực” trong việc san lấp mặt bằng do độ dốc lớn, mưa nhiều khiến bùn đất nhão nhoẹt.
Việc di dời dân ra khỏi khu vực rừng phòng hộ đến vị trí mới cũng gian nan không kém. Anh Nghĩa kể, nóc Răng Dí đến nay vẫn chưa có đường, điện và nằm cheo leo trên đỉnh đồi. Để vào làng phải lội bộ nhiều giờ. Dù đã có phương án di dời từ rất sớm, song cán bộ từ huyện đến thôn phải mất nhiều năm vất vả mới có được “tiếng nói chung” với người dân.
“Bà con không muốn rời đi vì làng cũ gắn liền với nơi sản xuất, dù điều kiện sống còn nhiều khó khăn. Có người cõng buồng chuối từ nóc ra huyện bán được 15.000 đồng, chỉ đủ tiền mua nước dọc đường, còn về tay không...
Nhưng cũng chính những người dám bước ra khỏi khuôn khổ làng, tiếp thu điều mới rồi kể lại cho bà con, đã tạo nên chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức. Năm 2024, nóc Răng Dí đồng ý di dời, sắp xếp đến vị trí mới, an toàn hơn, nhưng đi kèm với đó là bài toán sinh kế…” - anh Nghĩa chia sẻ.
Lại có những trường hợp khi địa phương tìm được mặt bằng ưng ý, đáp ứng tiêu chí an toàn, gần khu sản xuất, thuận lợi đầu tư hạ tầng thì người dân lại từ chối vì nơi đó từng có “cái chết xấu”. Tư tưởng này ăn sâu trong nhận thức. Thậm chí, có gia đình chỉ trong chục năm đã dời nhà 4-5 lần.
Ông Nguyễn Đỗ Trí - Phó Chủ tịch UBND xã Trà Cang tâm sự: Năm ngoái, khi di dời làng Tak Chay, địa phương cũng rất đau đầu vì tình huống tương tự. Mặt bằng đẹp nhưng bà con không chịu vào ở, nên phải bố trí xen ghép ở những khu dân cư lân cận…
Theo khảo sát của UBND huyện Nam Trà My, toàn huyện có 3.244 hộ nằm trong kế hoạch sắp xếp, ổn định dân cư giai đoạn 2021 - 2025 (tăng 700 hộ so với chỉ tiêu Nghị quyết số 23 của HĐND tỉnh giao do ảnh hưởng thiên tai).
Từ 2021 - 2024, Nam Trà My đã phê duyệt hỗ trợ gần 1.000 hộ tại 24 khu dân cư theo Nghị quyết số 23, với kinh phí gần 87,8 tỷ đồng. Trong 5 tháng đầu năm 2025, UBND huyện tiếp tục phê duyệt 7 khu dân cư với 239 hộ, tổng kinh phí phân bổ về cấp xã gần 34 tỷ đồng. Đây là nỗ lực rất lớn, thể hiện quyết tâm đưa nghị quyết vào cuộc sống của địa phương miền núi này.
Ông Trần Văn Mẫn - Phó Chủ tịch UBND huyện cho biết, thuận lợi là người dân phát huy tinh thần đoàn kết, giúp nhau dời nhà cửa, tài sản, dựng nhà mới, góp phần giảm thiểu chi phí đầu tư xây dựng.
Các địa phương đã ưu tiên hỗ trợ di dời cho các hộ có nguy cơ cao đến nơi an toàn. Qua đó, góp phần thực hiện hiệu quả các chính sách hỗ trợ ổn định sản xuất, khuyến khích người dân vươn lên thoát nghèo bền vững và đầu tư kết cấu hạ tầng gắn với xây dựng nông thôn mới.
Phát huy hiệu quả chính sách
Trong 20 năm qua, Tây Giang là địa phương hiện thực hóa chính sách an cư tốt nhất tỉnh. Từ các nguồn lực đầu tư, hỗ trợ, huyện đã san ủi mặt bằng tái định cư tại hơn 130 điểm dân cư để bố trí cho hơn 4.000 hộ.
Người dân vùng cao Nam Trà My đoàn kết, giúp đỡ nhau dời nhà về nơi ở mới. Trong ảnh: Người dân làng Lăng Lương, xã Trà Tập giúp nhau tháo dỡ nhà cũ. Ảnh: HỒ QUÂN
Trong đó, có 1.386 hộ được sắp xếp theo Nghị quyết số 12/2017 của HĐND tỉnh, với kinh phí gần 60 tỷ đồng. Đặc biệt, những năm qua, huyện vùng biên này tiếp tục thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 23/2021 với 442/476 hộ di dời nhà ở đến nơi an toàn, tổng kinh phí khoảng 41,2 tỷ đồng.
Nhờ sắp xếp dân cư, nhiều năm qua, người dân Tây Giang khá an toàn qua các đợt thiên tai khắc nghiệt. Ông Bhling Mia - Bí thư Huyện ủy Tây Giang cho biết, địa phương chú trọng lựa chọn địa điểm, quy hoạch điểm tái định cư gắn kết giữa nơi ở với nơi sản xuất, phù hợp phong tục, tập quán, thích ứng biến đổi khí hậu và đảm bảo quốc phòng - an ninh.
Đây cũng là tiền đề để Tây Giang đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng thiết yếu tại các khu tái định cư, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho đời sống người dân đúng theo phương châm “nơi ở mới tốt và an toàn hơn nơi ở cũ”. Đến nay, cả 10 xã trên địa bàn có đường ô tô đến trung tâm xã; 98% đường giao thông nông thôn được bê tông hóa; hơn 95% số hộ sử dụng điện lưới quốc gia…
Thực hiện Nghị quyết số 23 của HĐND tỉnh, đến nay toàn tỉnh có hơn 2.500 hộ được sắp xếp. Dự kiến đến hết năm 2025, sẽ có 3.786 hộ được bố trí tái định cư, ổn định cuộc sống, với kinh phí ước tính khoảng 359 tỷ đồng.
Ông Hồ Quang Bửu - Phó Chủ tịch UBND tỉnh nói, khu vực miền núi Quảng Nam có địa hình chia cắt, độ dốc lớn, thường xuyên chịu ảnh hưởng thiên tai, biến đổi khí hậu, trong khi hệ thống quan trắc, cảnh báo còn nhiều hạn chế.
Thời gian qua, tỉnh đã nỗ lực rà soát, đánh giá mức độ rủi ro thiên tai tại các khu dân cư hiện có và điểm dự kiến bố trí tái định cư trên cơ sở khoa học, phù hợp quy hoạch và đảm bảo điều kiện sống cho người dân. Việc bố trí tái định cư chủ yếu theo hình thức xen ghép, hạn chế xây dựng khu tái định cư tập trung nhằm tránh nguy cơ sạt lở do san ủi mặt bằng.
“Quảng Nam sẽ tập trung khôi phục rừng tự nhiên, xác lập bản đồ cảnh báo sạt lở, lắp đặt hệ thống quan trắc sớm tại vùng có nguy cơ cao, làm cơ sở khoa học để lồng ghép các giải pháp ổn định dân cư gắn với phát triển bền vững vùng núi” - ông Bửu cho biết.
Theo ông Nguyễn Công Thanh - Phó Chủ tịch HĐND tỉnh, trong số các cơ chế, chính sách đặc thù dành cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, thì Nghị quyết số 23/2021 về sắp xếp, ổn định dân cư miền núi là chính sách triển khai thành công và phát huy hiệu quả rõ rệt.
Bởi chính sách này phù hợp với điều kiện, nhu cầu thực tế và tạo chuyển biến về nhận thức trong người dân đối với việc “an cư, lạc nghiệp”, khơi dậy tinh thần vươn lên. Nhờ đó, tỷ lệ hộ nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số giảm bình quân 9%/năm, góp phần vực dậy vùng Tây, thu hẹp khoảng cách với khu vực đồng bằng.
Nguồn: https://baoquangnam.vn/giai-bai-toan-an-cu-vung-cao-3157086.html
Bình luận (0)