Ưu tiên phát triển đội ngũ giảng viên
Ông Vũ Minh Đức - Cục trưởng Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục (Bộ GD&ĐT) khẳng định, giáo dục đại học có tác động sâu rộng đến nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa; đồng thời giữ vai trò quan trọng trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thúc đẩy nghiên cứu khoa học, nâng cao vị thế quốc gia, xây dựng xã hội tri thức và phát triển bền vững.
Trong hệ thống giáo dục đại học, giảng viên giữ vị trí trung tâm. Họ không chỉ là người truyền đạt kiến thức, mà còn là người hướng dẫn, cố vấn, truyền cảm hứng cho sinh viên; đồng thời là nhà nghiên cứu khoa học, tạo ra tri thức mới và đóng vai trò cầu nối giữa nhà trường với xã hội.
Theo số liệu thống kê, cả nước hiện có gần 86 nghìn giảng viên cơ hữu tại các cơ sở giáo dục đại học (trong đó, khối công lập chiếm hơn 70 nghìn). Đội ngũ này có gần 750 GS, hơn 5.900 PGS, trên 30 nghìn TS và gần 50 nghìn ThS. Những năm qua, số lượng và chất lượng giảng viên đại học không ngừng tăng lên, từng bước hội nhập quốc tế.
Khẳng định, Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách quan trọng nhằm xây dựng, phát triển đội ngũ giảng viên và thu hút nhà khoa học uy tín trong và ngoài nước; ông Vũ Minh Đức viện dẫn, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định một trong ba đột phá chiến lược là phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; gắn đào tạo với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 cũng nhấn mạnh yêu cầu có chính sách vượt trội để thu hút, trọng dụng nhân tài, chuyên gia trong và ngoài nước. Đặc biệt, Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị đã đặt ra yêu cầu phát triển đội ngũ giảng viên, nhà khoa học có năng lực chuyên môn cao trong các lĩnh vực then chốt như khoa học cơ bản, công nghệ bán dẫn, thiết kế vi mạch, kỹ thuật số... Đồng thời, chú trọng mở rộng hợp tác quốc tế với các đại học uy tín, hiện đại hóa chương trình đào tạo, đổi mới phương pháp giảng dạy và tích hợp công nghệ tiên tiến, trong đó có trí tuệ nhân tạo.

Mới đây, Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị tiếp tục khẳng định, giáo dục đại học là nòng cốt phát triển nhân lực trình độ cao, nhân tài, thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Văn kiện này đồng thời nhấn mạnh yêu cầu có chính sách ưu đãi đặc thù, vượt trội cho đội ngũ nhà giáo; xây dựng cơ chế huy động nhân lực chất lượng cao ngoài lực lượng nhà giáo tham gia giảng dạy, huấn luyện tại các cơ sở giáo dục; khuyến khích các chuyên gia, nhà khoa học chủ trì hoạt động nghiên cứu; tuyển dụng ít nhất 2.000 giảng viên giỏi từ nước ngoài.
“Chính sách thu hút, đãi ngộ xứng đáng được xem là sự động viên lớn lao của Đảng và Nhà nước đối với đội ngũ giảng viên. Khi đời sống, thu nhập được cải thiện, giảng viên sẽ yên tâm công tác, toàn tâm toàn ý cho sự nghiệp trồng người, đồng thời tăng sức hấp dẫn của nghề nhà giáo trong xã hội”, ông Vũ Minh Đức nhấn mạnh.
Vai trò chủ lực trong nghiên cứu khoa học
Ông Phạm Quang Hưng - Cục trưởng Cục Khoa học, Công nghệ và Thông tin (Bộ GD&ĐT) nhận định, hoạt động nghiên cứu khoa học trong các cơ sở giáo dục đại học những năm qua có bước phát triển rõ nét. Số bài báo khoa học trên các tạp chí quốc tế uy tín tăng nhanh 12-15%/ năm. Hệ thống giáo dục đại học đóng góp khoảng 70% số bài trên WoS và 90% trên Scopus của cả nước. Các cơ sở giáo dục đại học đang dần trở thành những chủ thể nghiên cứu mạnh…
Mặc dù đạt thành tựu đáng ghi nhận, hoạt động nghiên cứu khoa học tại nhiều trường vẫn đối mặt thách thức. Bộ GD&ĐT nhận xét tốc độ tăng công bố quốc tế đang chậm lại, đòi hỏi các trường phải chuyển từ “lượng” sang “chất”. Việc thương mại hóa kết quả nghiên cứu còn hạn chế.
Nguồn lực tài chính cho khoa học ở trường đại học tuy tăng nhưng vẫn cần sử dụng hiệu quả. Đặc biệt, khoảng cách về năng lực nghiên cứu giữa các trường rất lớn. Chỉ một số ít trường top đạt tầm khu vực, trong khi nhiều trường khác số lượng công bố ít, chưa hình thành được nhóm nghiên cứu mạnh. Nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ vẫn là “điểm nghẽn” khi nguồn thu từ hoạt động này tại đa số trường rất thấp.
Để huy động nguồn lực thúc đẩy hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trong các cơ sở dục đại học, Cục Khoa học, Công nghệ và Thông tin đề xuất, cần đổi mới phương thức quản lý, phân bổ ngân sách cho hoạt động khoa học công nghệ đối với các cơ sở giáo dục đại học.

Trong bối cảnh tự chủ đại học, giải pháp đột phá nhất để huy động nguồn lực thúc đẩy hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trong giáo dục đại học chính là cơ chế thúc đẩy đa dạng nguồn thu cho giáo dục đại học, phát huy sức mạnh từ các nguồn kinh phí hợp tác với doanh nghiệp, nguồn kinh phí huy động từ xã hội.
Cùng với đó, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ. Trong bối cảnh quốc hóa và toàn cầu hóa, hợp tác nghiên cứu là cơ hội để cơ sở giáo dục đại học tăng cường nguồn lực tài chính, thu hút chuyên gia quốc tế tham gia vào quá trình đào tạo, nghiên cứu, sáng tạo công nghệ tại Việt Nam.
Cần hình thành các trung tâm AI trong giáo dục đại học
Trao đổi về ứng dụng AI trong giáo dục đại học, ông Nguyễn Thanh Hùng - Đại học Bách khoa Hà Nội cho biết: Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các cơ sở giáo dục đại học trên toàn thế giới đã chủ động nghiên cứu, từng bước đưa ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) vào hoạt động đào tạo, nghiên cứu và quản lý, điều hành.
Một số khảo sát gần đây cho thấy, sử dụng AI trong giáo dục đại học ngày càng phổ biến và có xu hướng tăng mạnh, đặc biệt trong nhóm sinh viên. Tuy nhiên, bên cạnh sự hứng thú, sinh viên vẫn lo ngại về độ chính xác của các công cụ này.
Số liệu khảo sát từ Global AI Student Survey năm 2024 cho thấy, 86% sinh viên dùng AI trong học tập, 66% chọn ChatGPT. Sinh viên chủ yếu tìm kiếm thông tin (69%), kiểm tra ngữ pháp (42%), tóm tắt tài liệu (33%). Về tần suất sử dụng, 24% sinh viên dùng AI mỗi ngày và 54% sử dụng AI trong học tập ít nhất một lần một tuần.
Trong khi đó, giảng viên và lãnh đạo giáo dục lại có cái nhìn thận trọng hơn. Khoảng 61% giảng viên từng dùng AI trong giảng dạy nhưng phần lớn chỉ ở mức hạn chế, nhiều người bày tỏ lo ngại sinh viên có thể thiếu khả năng tư duy phản biện khi phụ thuộc vào AI. Ngoài ra, các vấn đề như gian lận học thuật, thiên lệch trong dữ liệu và quyền riêng tư cũng được giảng viên và quản trị viên quan tâm sâu sắc. Đặc biệt, 59% lãnh đạo giáo dục cho biết tình trạng gian lận gia tăng, mặc dù 91% tin rằng AI có thể nâng cao việc học về lâu dài.
Thách thức lớn nhất hiện nay, theo ông Nguyễn Thanh Hùng, không nằm ở việc sinh viên có sử dụng AI hay không, mà là làm thế nào để tích hợp AI một cách hiệu quả, vừa phát huy lợi ích trong học tập và giảng dạy, vừa đảm bảo chất lượng học thuật, tư duy phản biện, tính liêm chính.
Trình bày một số kết quả quan trọng trong công tác chuyển đổi số tại Đại học Bách khoa, ông Nguyễn Thanh Hùng đặc biệt chia sẻ về nền tảng chuyển đổi số eHUST với mô hình kiến trúc mở, cho phép tích hợp hiệu quả các sản phẩm trong hệ sinh thái để tạo thành một chuỗi dịch vụ thống nhất cho người học, cán bộ, các nhà quản lý.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu Nghị quyết 71-NQ/TW, ông Nguyễn Thanh Hùng cho rằng, cần hình thành các trung tâm AI trong giáo dục đại học làm hạt nhân nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và đào tạo nhân lực, đồng thời thử nghiệm các mô hình giảng dạy, quản trị mới.
Tiếp đó, phải đầu tư hạ tầng dữ liệu và điện toán hiện đại, xây dựng cơ sở dữ liệu giáo dục thống nhất, kết nối liên thông và trang bị hệ thống điện toán hiệu năng cao, kho dữ liệu mở, nền tảng chia sẻ học liệu số. Đây là nền tảng để nâng cao năng lực nghiên cứu, giảng dạy và quản trị.
Song song, cần phát triển nguồn nhân lực AI; tăng cường hợp tác công - tư, huy động nguồn lực tài chính, dữ liệu, công cụ và môi trường thực tiễn từ doanh nghiệp, giúp ứng dụng AI gắn với nhu cầu xã hội và thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Hoàn thiện khung pháp lý và chính sách về bảo mật dữ liệu, quyền riêng tư, đạo đức học thuật, đồng thời xây dựng cơ chế khuyến khích nghiên cứu, đổi mới và kiểm định chất lượng cho các chương trình, sản phẩm giáo dục ứng dụng AI.

Kiểm soát chất lượng đào tạo trong bối cảnh hội nhập
Từ thực tiễn, tại hội nghị, ông Trần Việt Dũng - Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Luật TP Hồ Chí Minh đề xuất một số giải pháp kiểm soát chất lượng đầu vào và đầu ra đối với các ngành đào tạo trong lĩnh vực pháp luật. Theo đó, việc thống nhất chuẩn đầu vào cho các ngành, các cơ sở đào tạo, đồng thời tăng cường giám sát chặt chẽ chất lượng đầu ra được coi là yêu cầu tất yếu nhằm bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực pháp lý trong bối cảnh hội nhập quốc tế và chuyển đổi số sâu rộng.
Đội ngũ cử nhân luật hiện nay không chỉ cần vững vàng về chuyên môn, mà còn phải thích ứng nhanh với môi trường pháp lý hiện đại, biết ứng dụng công nghệ, sử dụng thành thạo ngoại ngữ và sở hữu tư duy phản biện sắc bén.
Nghị quyết số 71-NQ/TW đã xác định rõ định hướng phát triển giáo dục và đào tạo trong giai đoạn mới - nhấn mạnh, đổi mới mạnh mẽ chương trình đào tạo theo chuẩn quốc tế; tích hợp nội dung về phân tích dữ liệu và trí tuệ nhân tạo, tinh thần doanh nhân và khởi nghiệp”; đồng thời yêu cầu “tăng cường quản lý chất lượng đào tạo các ngành sư phạm, sức khỏe, pháp luật và các ngành trọng điểm”.
Do vậy, các giải pháp kiểm soát chất lượng đầu vào và đầu ra đối với ngành đào tạo pháp luật cần được triển khai đồng bộ, chặt chẽ với sự phối hợp giữa Bộ GD&ĐT, các cơ quan quản lý nhà nước liên quan, các cơ sở đào tạo luật cùng cộng đồng doanh nghiệp hành nghề pháp lý. Việc đầu tư bài bản cho hệ thống đào tạo luật không chỉ nhằm đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực chuyên môn cao trong nước, mà còn là yếu tố then chốt để Việt Nam hội nhập sâu rộng, hiệu quả vào hệ thống pháp luật quốc tế.
Nguồn: https://giaoducthoidai.vn/giai-phap-nang-cao-chat-luong-dao-tao-nghien-cuu-khoa-hoc-trong-giao-duc-dh-post748889.html
Bình luận (0)