
Trong bối cảnh dịch bệnh phức tạp và biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt, việc duy trì năng suất, chất lượng hồ tiêu đang trở thành bài toán nếu không có giải pháp đầu tư bài bản cho giống.
Giá hồ tiêu được dự báo sẽ tiếp tục giữ ở mức cao trong thời gian tới do nguồn cung toàn cầu sụt giảm, trong khi nhu cầu thị trường thế giới đang có xu hướng phục hồi. Tuy nhiên, đà tăng trưởng về giá trị xuất khẩu lại không kéo theo sự phát triển tương xứng trong công tác giống. Đây là điểm nghẽn lớn nhất trong chuỗi sản xuất và là yếu tố quyết định sự phát triển bền vững của ngành hồ tiêu trong những năm tới.
TS. Phan Việt Hà, Phó Viện trưởng phụ trách Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên (WASI) cho biết, hiện nay, vấn đề giống hồ tiêu đang gặp rất nhiều khó khăn. Nhu cầu về giống phục vụ trồng mới, tái canh và phục hồi vườn tiêu là rất lớn, nhưng nguồn cung giống chủ yếu vẫn đến từ các vườn ươm nhỏ lẻ, không có nguồn gốc rõ ràng, chưa được kiểm định chất lượng. Điều này dẫn đến tình trạng giống trôi nổi tràn lan trên thị trường, gây rủi ro cao cho người trồng.
Chuyên gia hồ tiêu ở Gia Lai, ông Hoàng Phước Bính nhận định thêm, công tác quản lý giống hồ tiêu hiện nay chưa được kiểm soát chặt chẽ. Người dân thường mua giống thông qua các kênh quảng cáo không chính thống, nhiều giống được lựa chọn một cách cảm tính, không dựa trên cơ sở khoa học hay kết quả khảo nghiệm. Hệ quả là nhiều vườn tiêu trồng mới không đạt năng suất như kỳ vọng, thậm chí bị dịch bệnh tấn công ngay trong những năm đầu canh tác.
Lý giải vì sao dù là mặt hàng xuất khẩu tỷ đô nhưng giống hồ tiêu chất lượng vẫn khan hiếm, ông Nguyễn Quang Ngọc, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển cây Hồ tiêu cho biết, hồ tiêu là cây công nghiệp lâu năm nên việc chọn tạo giống không thể thực hiện trong thời gian ngắn. Để có một giống mới được công nhận và đưa vào sản xuất đại trà cần tối thiểu từ 15 - 20 năm. Quá trình này bao gồm lai tạo, trồng thử, theo dõi kết quả ra trái, đánh giá năng suất và độ ổn định trong nhiều vụ liên tiếp. Nếu giống không đạt, toàn bộ quá trình phải bắt đầu lại từ đầu, rất tốn kém và mất thời gian.
Hiện Trung tâm đã lai tạo được một số giống tiêu triển vọng, cả giống nội địa lẫn giống nhập ngoại. Tuy nhiên, tất cả vẫn đang trong giai đoạn khảo nghiệm, chưa có giống nào đủ điều kiện công bố ra thị trường. Một giống mới đã được trung tâm nộp hồ sơ lên Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật để đăng ký bảo hộ giống cây trồng, dự kiến sẽ được công nhận vào năm 2026 và có thể thương mại hóa.

Trên thực tế, giống Vĩnh Linh - có nguồn gốc từ Quảng Trị đang chiếm khoảng 90% diện tích trồng hồ tiêu trên cả nước. Tuy nhiên, giống này cũng đã được trồng đại trà nhiều năm, tiềm năng cải tiến về năng suất, chất lượng hay khả năng chống chịu sâu bệnh không còn nhiều. Trong khi đó, người dân lại có xu hướng tự ươm giống từ các vườn nhà hoặc mua giống từ các vườn ươm tư nhân không rõ nguồn gốc. Điều này gây ra sự thiếu kiểm soát trong toàn chuỗi sản xuất và là nguy cơ lớn khi dịch bệnh hoặc điều kiện thời tiết bất thường xảy ra.
Ông Nguyễn Quang Ngọc nhấn mạnh, để khắc phục tình trạng này, cần sớm xây dựng các vườn nhân giống đầu dòng, đảm bảo cung ứng các loại hom tiêu thân và hom tiêu lươn có chất lượng, giúp rút ngắn khoảng cách giữa nghiên cứu - khảo nghiệm và sản xuất đại trà. Tuy nhiên, để đưa giống ra thị trường thành công cũng cần thay đổi nhận thức của người trồng tiêu, bởi hiện nay vẫn còn nhiều người chưa mặn mà với việc sử dụng giống được xác nhận, do tâm lý ngại chi phí hoặc chưa thấy được hiệu quả rõ ràng.
Song song với nghiên cứu giống, WASI cũng đang triển khai nhiều giải pháp canh tác tiêu theo hướng bền vững. Trong đó, mô hình sử dụng trụ sống thay cho trụ bê tông đã cho thấy hiệu quả rõ rệt về cả kinh tế và môi trường. Nghiên cứu cho thấy trụ sống giúp tăng tuổi thọ vườn tiêu từ 20 - 50%, giảm chi phí đầu tư ban đầu, ổn định năng suất và góp phần bảo vệ hệ sinh thái đất.
Một số mô hình canh tác kết hợp hồ tiêu với cây ăn trái như bơ, sầu riêng cũng đã mang lại kết quả tích cực. Các mô hình này giúp cải thiện tiểu khí hậu vườn, tăng độ ẩm, giảm rụng gié, tăng tỷ lệ đậu quả và giảm sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật. Đồng thời, đây cũng là hướng đi quan trọng trong việc giảm phát thải khí nhà kính, tăng hấp thu CO₂ và cải thiện độ hữu cơ trong đất.
Công tác chọn tạo giống hồ tiêu tại Việt Nam còn nhiều thách thức, đòi hỏi sự kiên trì, đầu tư dài hạn và sự đồng hành từ chính sách nhà nước. Trong khi quá trình nghiên cứu kéo dài, nhu cầu thị trường chưa tạo được động lực đủ mạnh để đẩy nhanh việc ứng dụng và thương mại hóa giống mới. Nếu không có sự thay đổi trong nhận thức của người trồng và cơ chế hỗ trợ rõ ràng, việc nâng cao chất lượng giống hồ tiêu - yếu tố cốt lõi để giữ vững vị thế ngành hàng tỷ đô sẽ đối mặt với nhiều khó khăn trong thời gian tới.
Nguồn: https://baotintuc.vn/kinh-te/giong-ho-tieu-nut-that-trong-chuoi-gia-tri-ty-do-20251012165506859.htm
Bình luận (0)