Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Giữ gìn nghề đan gùi của các dân tộc ở Đồng Nai

Giữa nhịp sống hối hả của đô thị hóa, khi nhiều nghề thủ công truyền thống đang dần biến mất, ở Đồng Nai vẫn còn những bàn tay âm thầm kiên nhẫn giữ lấy từng ống tre, sợi lồ ô để đan thành chiếc gùi.

Báo Đồng NaiBáo Đồng Nai10/10/2025

Ở tuổi 73, ông Điểu Oanh (bên phải) ở xã Phước Sơn, tỉnh Đồng Nai vẫn miệt mài gắn bó với nghề đan gùi của dân tộc mình. Ảnh: Từ Huy
Ở tuổi 73, ông Điểu Oanh (bên phải) ở xã Phước Sơn, tỉnh Đồng Nai vẫn miệt mài gắn bó với nghề đan gùi của dân tộc mình. Ảnh: Từ Huy

Đó không chỉ là vật dụng quen thuộc gắn bó với lao động sản xuất mà còn là biểu tượng văn hóa của các cộng đồng dân tộc, đặc biệt là người S’tiêng và Khmer tại nhiều địa phương. Giữ nghề, với họ, không đơn thuần là mưu sinh mà còn là cách để nối dài ký ức của ông cha, gìn giữ hồn cốt dân tộc.

Công phu nghề đan gùi

Nghề đan gùi xuất hiện từ lâu đời, gắn liền với đời sống của đồng bào các dân tộc S’tiêng, M’nông, Khmer ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới của tỉnh Đồng Nai. Tre, nứa, lồ ô, những nguyên liệu bình dị nhưng khi qua bàn tay khéo léo của người thợ đã biến thành những vật dụng bền bỉ, chắc chắn.

Quy trình làm gùi đòi hỏi sự công phu và tỉ mỉ. Từ khâu chọn vật liệu phải cân nhắc chọn đúng tuổi cây để đảm bảo không bị non hay quá già. Người thợ thường chọn tre vừa đủ tuổi, sau đó chẻ thành nan mỏng, vót nhẵn, phơi khô để giữ độ dẻo. Nhiều nan tre còn được nhuộm màu, xử lý để khi đan xong thành phẩm sẽ có hoa văn đẹp mắt. Công đoạn dựng khung quyết định dáng gùi, rồi tiếp đến là đan đáy, lưng, miệng... Từng nan tre phải đều nhau, xiết chặt và chính xác.

Ông Điểu Oanh (73 tuổi, ngụ xã Phước Sơn, tỉnh Đồng Nai) cho biết: “Tôi biết đan gùi từ năm 20 tuổi. Đan gùi này có nhiều kiểu lắm, khó nhất là làm sao cho mấy cái nan đều nhau, tạo hoa văn cho đẹp. Muốn vậy phải biết bỏ hàng sao cho đúng, cho đều nhau. Tre lồ ô làm gùi cũng phải lựa kỹ, non quá nó héo, già quá nó gãy. Muốn bền đẹp thì phải lựa tre cho đúng nữa, cũng cầu kỳ lắm”.

Trong đời sống, chiếc gùi là “người bạn” của đồng bào dân tộc. Đi rẫy, đi rừng, đi chợ…, gùi dùng để đựng lúa, mì, bắp, khoai, thậm chí cả củi. Có thể nói, nó gánh trên mình cả đời sống sản xuất và sinh hoạt thường ngày của người dân. Điểm chung của nghề đan gùi ở Đồng Nai là sự bền bỉ. Họ cần mẫn, chậm rãi, kiên trì trong từng mối đan. Do đó, chiếc gùi không chỉ là vật dụng giản dị, gắn liền với lao động sản xuất hằng ngày của các dân tộc thiểu số mà còn mang trong mình giá trị văn hóa riêng.

Chiếc gùi phản ánh phong tục và cách sống của cộng đồng

Tuy cùng gọi là “gùi” song sản phẩm của người S’tiêng và người Khmer lại có những đặc trưng riêng biệt, phản ánh phong tục và cách sống của mỗi cộng đồng. Người S’tiêng thường tạo ra những chiếc gùi to, chắc, thiên về công năng sử dụng. Hoa văn trên gùi của người S’tiêng chủ yếu là các đường kẻ ngang dọc đơn giản, ít màu sắc. Với người S’tiêng, cái gùi là vật dụng thiết yếu trên nương rẫy, giúp họ vận chuyển nông sản, gánh lương thực từ rừng về bản. Nhiều nghệ nhân S’tiêng chia sẻ rằng “cái gùi chắc khỏe như chính tấm lưng người S’tiêng”, dẻo dai, bền bỉ, gắn bó với đất đai.

Ngược lại, người Khmer ở xã Lộc Hưng đan gùi thiên về tính thẩm mỹ. Những chiếc gùi Khmer nhỏ nhắn hơn nhưng lại cầu kỳ trong hoa văn, đôi khi được phối màu, tạo hình bắt mắt. Nghề này còn mang dấu ấn phong tục đặc biệt: chỉ truyền cho đàn ông trong gia đình. Theo quan niệm truyền thống của người Khmer, nghề đan gùi cần sức khỏe và sự kiên nhẫn, là trách nhiệm của người đàn ông, người gánh vác công việc nặng nhọc và gìn giữ bản sắc.

Ông Lâm Tý, một nghệ nhân cao tuổi ở xã Lộc Hưng chia sẻ: “Với giá bán từ 150-400 ngàn đồng/chiếc gùi, không cần đi xa, làm xong cứ treo lên tường nhà, khách đi ngang thấy đẹp thì họ vào mua. Nghề này giúp vợ chồng tôi đủ ăn, đủ mặc. Điều quý nhất là còn giữ được nghề của ông cha”.

Một điều đáng chú ý, với người Khmer, chiếc gùi không chỉ phục vụ sinh hoạt mà còn là sản phẩm văn hóa. Mỗi nan tre, mỗi mối đan đều mang theo câu chuyện gia đình, truyền thống. Như lời ông Lâm Đay, Trưởng ấp Baven, xã Lộc Hưng: “Nghề đan lát là phong tục tập quán từ xưa. Mình giữ nghề để con cháu sau này còn biết ông bà từng làm ra cái gùi thế nào”.

Truyền dạy cho các thế hệ sau

Nghề đan gùi vốn đã ít người duy trì, nay càng khó giữ hơn khi lớp trẻ dần rời quê đi làm ăn xa. Nhiều thanh niên chọn nghề khác có thu nhập ổn định hơn, để lại những đôi tay già nua vẫn kiên trì bên từng nan tre, từng ống lồ ô. Tuy nhiên, không vì thế mà ngọn lửa nghề bị tắt. Ở xã Lộc Hưng, nhiều người lớn tuổi đã quay lại học nghề sau thời gian bỏ dở.

Để bảo tồn, một số tổ nhóm nghề đã được thành lập. Tại nhiều thôn, người lớn tuổi biết nghề sẵn sàng hướng dẫn miễn phí, hy vọng thế hệ trẻ sẽ quan tâm. Khu Bảo tồn văn hóa S’tiêng sóc Bom Bo (xã Bom Bo, tỉnh Đồng Nai) đã từng bước đưa nghề đan gùi vào chương trình bảo tồn di sản phi vật thể, mở các lớp đào tạo dài ngày để nhiều thế hệ người S’tiêng khôi phục, duy trì nghề.

Ông Phạm Anh Tuấn, Giám đốc Trung tâm Dịch vụ tổng hợp xã Bom Bo cho hay: “Những lớp học như vậy vừa tạo điều kiện để các thế hệ người S’tiêng trao truyền kiến thức quý báu trong nghề đan gùi truyền thống của đồng bào mình cho các thế hệ tiếp nối vừa là tiền đề kết nối với các tour du lịch cộng đồng. Khi du khách đến trải nghiệm, họ không chỉ ngắm nhìn mà còn được tự tay thử đan vài mối tre, cảm nhận sự công phu và tỉ mỉ của nghề”.

Điều cần nhất hiện nay chính là đầu ra cho sản phẩm. Nếu chiếc gùi chỉ dừng lại trong phạm vi sử dụng hằng ngày, nghề sẽ khó tồn tại. Nhưng nếu nó trở thành sản phẩm văn hóa, du lịch gắn với Chương trình OCOP (Chương trình Mỗi xã một sản phẩm), gắn với các hoạt động trải nghiệm cho du khách thì chiếc gùi sẽ có thêm đời sống mới. Khi ấy, người thợ vừa giữ được nghề vừa có thêm thu nhập, lớp trẻ sẽ có động lực học và tiếp nối.

Nghề đan gùi của các dân tộc ở Đồng Nai không chỉ đơn giản là một nghề thủ công. Đó là ký ức của bao thế hệ, là sự phản chiếu bản sắc của từng dân tộc, là minh chứng cho sức sống văn hóa giữa thời hiện đại. Mỗi chiếc gùi tre không chỉ gánh nông sản mà còn “gánh” cả câu chuyện của dân tộc mình, từ quá khứ tới hiện tại. Giữ nghề là giữ lấy văn hóa. Trong thời kỳ công nghiệp hóa, khi mọi thứ có thể thay thế bằng máy móc thì giá trị thủ công lại càng đáng trân trọng. Mỗi mối đan, mỗi hoa văn không chỉ là sản phẩm mà còn là di sản. Như lời ông Lâm Đay, Trưởng ấp Baven, xã Lộc Hưng: “Giữ nghề không phải cho riêng mình mà cho cả con cháu, cho mai sau”.

 

Lyna Phan

Nguồn: https://baodongnai.com.vn/dong-nai-cuoi-tuan/202510/giu-gin-nghe-dan-gui-cua-cac-dan-toc-o-dong-nai-2752997/


Chủ đề: Đô thị hóa

Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Đội tuyển Việt Nam thăng hạng FIFA sau trận thắng Nepal, Indonesia lâm nguy
71 năm sau ngày giải phóng, Hà Nội vẹn nguyên vẻ đẹp di sản trong dòng chảy hiện đại
71 năm ngày Giải phóng Thủ đô - khơi dậy khí thế để Hà Nội vững bước trong kỷ nguyên mới
Vùng lũ lụt ở Lạng Sơn nhìn từ máy bay trực thăng

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm