Bổ sung quy định về báo chí trên không gian mạng
Bày tỏ sự nhất trí cao với nội dung Tờ trình của Chính phủ, Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Văn hóa và Xã hội, các đại biểu cho rằng: Luật Báo chí năm 2016 đã tạo hành lang pháp lý quan trọng, góp phần thúc đẩy sự phát triển của báo chí, giúp người dân tiếp cận thông tin chính thống. Tuy nhiên, sau gần 10 năm thực hiện, nhiều quy định đã bộc lộ hạn chế, chưa theo kịp thực tiễn, nhất là trong bối cảnh công nghệ số phát triển nhanh, đặt ra nhiều thách thức mới đối với hoạt động báo chí.

Theo đại biểu Phạm Nam Tiến (Lâm Đồng), dự thảo Luật đã tập trung vào 4 nhóm chính sách lớn: tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý hoạt động báo chí; nâng cao chất lượng đội ngũ người làm báo; phát triển kinh tế báo chí; điều chỉnh hoạt động báo chí trên không gian mạng. Đây là những nhóm chính sách hợp lý và sát với yêu cầu thực tiễn.

Đại biểu đánh giá cao một số nội dung đổi mới, nhất là việc phân định rõ giữa báo và tạp chí, khắc phục tình trạng “báo hóa tạp chí” gây nhầm lẫn trong dư luận và khó khăn trong quản lý. Dự thảo cũng phân cấp cho địa phương quản lý văn phòng đại diện, cơ quan thường trú, tăng tính chủ động, kịp thời phát hiện và xử lý sai phạm ở cơ sở.

Theo đại biểu, việc bổ sung quy định về cấp phó của người đứng đầu cơ quan báo chí được cho là cần thiết, giúp hoàn thiện mô hình tổ chức, tăng tính minh bạch trong quản lý. Dự thảo cũng nâng cao vai trò của Hội Nhà báo Việt Nam trong việc kiến nghị xử lý vi phạm đạo đức nghề nghiệp; mở rộng nguồn thu hợp pháp cho cơ quan báo chí; cho phép nhập khẩu báo chí khi đủ điều kiện; đồng thời mở rộng phạm vi liên kết sản xuất chương trình, trừ lĩnh vực quốc phòng, an ninh và đối ngoại… Đặc biệt, dự thảo bổ sung quy định về hoạt động báo chí trên không gian mạng – điểm mới quan trọng nhằm bắt kịp sự vận động của truyền thông hiện đại, bảo đảm quản lý hiệu quả, đồng thời tạo điều kiện để báo chí phát triển phù hợp xu thế số hóa.
Về giải thích từ ngữ, đại biểu đề nghị không dùng cụm từ “báo nói”, “báo hình” mà thống nhất là “phát thanh” và “truyền hình”, phù hợp thông lệ quốc tế, thuận lợi cho đào tạo, hợp tác và quản lý báo chí trong nước... Bên cạnh đó, đại biểu cũng cho rằng, trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, cần dự liệu sớm các loại hình báo chí mới như báo chí sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI), podcast hoặc các sản phẩm thông tin đa phương tiện để có thể điều chỉnh kịp thời bằng quy định pháp luật.

Một số đại biểu cũng đề nghị tham khảo mô hình tập đoàn báo chí của Trung Quốc, trong đó Trung ương quản lý cơ quan Trung ương, địa phương quản lý cơ quan địa phương, giúp báo chí vừa có tính độc lập, vừa thống nhất định hướng. Theo mô hình này, 70% kinh phí hoạt động do Nhà nước cấp, giúp báo chí tập trung thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, không chịu áp lực thương mại hóa… Tuy nhiên, các đại biểu nhấn mạnh: “Báo chí Việt Nam là báo chí cách mạng, không chấp nhận báo chí tư nhân; việc tham khảo quốc tế chỉ nhằm rút ra kinh nghiệm phù hợp, bảo đảm giữ vững tôn chỉ, mục đích và bản chất của báo chí cách mạng Việt Nam”.
Quan tâm đến các quy định liên quan tạp chí khoa học, nhất là trong bối cảnh chuyển đổi số, đại biểu Nguyễn Văn Hiển (Lâm Đồng) cho rằng, một số quy định trong dự thảo còn thiếu rõ ràng, gây khó khăn cho hoạt động thực tiễn của các tạp chí khoa học. Theo đó, đại biểu nêu 3 vấn đề cần được làm rõ: khái niệm, địa vị pháp lý và loại hình hoạt động.
Về khái niệm, hiện dự thảo Luật định nghĩa tạp chí khoa học là sản phẩm báo chí xuất bản định kỳ để công bố kết quả nghiên cứu và thông tin khoa học chuyên ngành. “Cách hiểu này chỉ phù hợp với tạp chí in, chưa bao quát loại hình tạp chí điện tử đang phổ biến hiện nay, có thể xuất bản linh hoạt theo giờ hoặc chuyên đề. Do đó, cần điều chỉnh định nghĩa cho phù hợp thực tế chuyển đổi số”, đại biểu nhấn mạnh.

Về địa vị pháp lý, khoản 3 Điều 16 quy định cơ quan báo chí có tư cách pháp nhân, có con dấu, tài khoản, còn cơ quan tạp chí khoa học do cơ quan chủ quản quyết định. Cách quy định này, theo đại biểu, chưa minh bạch, dễ gây lúng túng khi áp dụng. Do đó, đề nghị tách bạch rõ: cơ quan báo chí có tư cách pháp nhân; còn cơ quan tạp chí khoa học có hoặc không có tư cách pháp nhân tùy quyết định của cơ quan chủ quản – cách quy định này rõ ràng, linh hoạt và phù hợp thực tiễn.
Về loại hình hoạt động, đại biểu nêu hai bất cập: Chưa phân biệt rõ giữa “đơn vị sự nghiệp công lập” và “đơn vị sự nghiệp công”; đồng thời, cụm từ “hoạt động phù hợp với loại hình của cơ quan chủ quản” chưa được giải thích cụ thể, dễ gây hiểu sai khi triển khai. Trên cơ sở đó, đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo làm rõ để thống nhất áp dụng trong toàn hệ thống.
Cũng tại phiên thảo luận, các đại biểu thống nhất cho rằng: việc sửa đổi Luật Báo chí lần này là yêu cầu cấp thiết, nhằm hoàn thiện khung pháp lý, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, đồng thời tạo điều kiện cho báo chí phát triển chuyên nghiệp, hiện đại, nhân văn, giữ vững tôn chỉ, bản chất của báo chí cách mạng Việt Nam trong thời kỳ chuyển đổi số.
Nâng cao chất lượng và thích ứng già hóa dân số
Trong phiên thảo luận tại Tổ, các ĐBQH tỉnh Nghệ An và Lâm Đồng cũng đã đóng góp nhiều ý kiến đối với dự án Luật Dân số. Qua nghiên cứu dự thảo Luật, Tờ trình của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Văn hóa – Xã hội, nhiều ý kiến đánh giá, dự án Luật có ý nghĩa chiến lược trong việc thể chế hóa Nghị quyết số 21-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương, nhằm chuyển trọng tâm chính sách từ “kế hoạch hóa gia đình” sang “dân số và phát triển”; coi con người vừa là trung tâm, vừa là động lực của phát triển bền vững. Đây là đạo luật nền tảng, có ảnh hưởng trực tiếp đến từng gia đình, từng địa phương và mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đại biểu Bố Thị Xuân Linh (Lâm Đồng) cho rằng, phạm vi điều chỉnh của dự thảo đã được mở rộng với nhiều nội dung như quy mô, cơ cấu, chất lượng dân số, truyền thông, bảo đảm điều kiện thực hiện chính sách dân số. Tuy nhiên, dự thảo vẫn chưa bao quát đầy đủ, chưa đề cập đến hệ thống thông tin, thống kê và cơ sở dữ liệu dân số – nền tảng của quản trị hiện đại, quyết định khả năng hoạch định chính sách… Do đó, đại biểu đề nghị bổ sung cụm từ “thống kê, hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu dân số”; đồng thời, bổ sung một điều riêng trong Chương I quy định về quản lý, chia sẻ, cập nhật, bảo mật và kết nối dữ liệu dân số với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, nhằm bảo đảm sự thống nhất, tránh chồng chéo với Luật Căn cước, Luật Giao dịch điện tử và Luật Thống kê.

Liên quan đến giải thích từ ngữ tại Điều 2, đại biểu nêu rõ dự thảo đã làm rõ một số khái niệm quan trọng như mức sinh thay thế, mất cân bằng giới tính khi sinh, già hóa dân số… Tuy nhiên, cần định nghĩa rõ hơn các thuật ngữ “nhân bản người vô tính”, “dịch vụ dân số”, “chất lượng dân số” để tạo thuận lợi trong áp dụng và hướng dẫn thi hành.
Về hành vi bị nghiêm cấm quy định tại Điều 6, đại biểu đề nghị bổ sung thêm hai hành vi. Thứ nhất, “tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại”, bởi thực tế đã xuất hiện tình trạng lợi dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để trục lợi, tiềm ẩn nguy cơ mua bán trẻ em, bóc lột phụ nữ, xâm phạm quyền trẻ em và đạo đức xã hội. Thứ hai, “các hành vi bị nghiêm cấm khác theo quy định của pháp luật” nhằm bảo đảm tính bao quát, linh hoạt khi áp dụng.

Về quy mô, cơ cấu và phân bố dân số (Điều 11, 14, 16), đại biểu đánh giá cao định hướng duy trì mức sinh hợp lý, cân bằng giới tính khi sinh và phân bố dân cư gắn với phát triển... Tuy nhiên, nội dung các điều này còn thiếu tính quy phạm cụ thể. Do đó, đề nghị làm rõ trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương trong việc lập, thẩm định, phê duyệt kế hoạch phân bố dân cư; quy định quy trình, thẩm quyền cụ thể; đồng thời gắn nội dung phân bố dân cư với quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, có tiêu chí như mật độ dân cư, khả năng tiếp cận dịch vụ công, hạ tầng xã hội, y tế, giáo dục để chính sách có thể thực thi hiệu quả.
Một số ý kiến tại phiên thảo luận cho rằng, quy định về duy trì mức sinh thay thế (Điều 13) là then chốt, quyết định tính khả thi của chính sách dân số giai đoạn mới. Dự thảo đã nhận diện đúng thực tế mức sinh thấp tại một số địa bàn và bước đầu đưa ra các nhóm giải pháp hỗ trợ sinh con. Tuy nhiên, các chính sách hiện vẫn thiên về ưu đãi ngắn hạn như hỗ trợ tiền mặt, ưu tiên thuê hoặc mua nhà ở xã hội mà chưa giải quyết căn cơ các vấn đề về chi phí nuôi con, môi trường làm việc và tâm lý xã hội. Do đó, cần bổ sung chính sách mang tính chiến lược, bảo đảm mọi trẻ em sinh ra đều được Nhà nước hỗ trợ một phần chi phí y tế, giáo dục, chăm sóc sức khỏe và dinh dưỡng cơ bản; phát triển mạnh hệ thống giữ trẻ công lập, khuyến khích doanh nghiệp xây nhà trẻ tại nơi làm việc.
Về nâng cao chất lượng dân số (Chương V), các ý kiến cũng đồng tình cao với các quy định của dự thảo, coi đây là chương phản ánh rõ tầm nhìn nhân văn của Luật Dân số, với các nội dung về tư vấn, khám sức khỏe tiền hôn nhân, sàng lọc trước sinh và sơ sinh. Tuy nhiên, khái niệm “chất lượng dân số” cần được hiểu rộng hơn, bao gồm cả sức khỏe tinh thần và trí lực… Do đó, đề nghị bổ sung trách nhiệm của Nhà nước trong việc nâng cao thể chất, trí tuệ, tinh thần của nhân dân, gắn với các chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục, y tế và thể thao.
Đại biểu cũng lưu ý phạm vi điều chỉnh của dự thảo luật rất rộng, liên quan đến nhiều luật khác như Luật Trẻ em, Luật Thanh niên, Luật Bình đẳng giới, Luật Người cao tuổi, Luật Khám bệnh, chữa bệnh, Luật Hôn nhân và gia đình… Một số dự án luật khác như Luật Chuyển đổi số, Luật Giáo dục, Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Thuế thu nhập cá nhân đang được sửa đổi, bổ sung. Do đó, cơ quan soạn thảo cần tiếp tục rà soát để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.
.jpg)
Góp ý về lồng ghép yếu tố dân số vào chiến lược, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội (Điều 4), đại biểu biểu Trịnh Thị Tú Anh (Lâm Đồng) đề nghị, bổ sung thêm yếu tố “chất lượng dân số” và “tác động của biến động dân số” như già hóa, chênh lệch giới tính, bởi dân số hiện đại không chỉ quan tâm đến quy mô, cơ cấu mà còn chú trọng chất lượng và tác động biến động.
Về mục đích, yêu cầu trong truyền thông, vận động, giáo dục dân số (Điều 7), đại biểu cho rằng, cần bổ sung cụm từ “nâng cao chất lượng dân số” vào sau cụm “giải quyết toàn diện, đồng bộ các vấn đề dân số” nhằm nhấn mạnh trọng tâm ưu tiên hàng đầu của công tác dân số hiện đại.

Đối với quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc sinh con (Điều 12), đại biểu nhận thấy quy định còn thiếu sự phân tách rõ ràng giữa quyền và nghĩa vụ. Khoản 1 thể hiện quyền tự do quyết định về việc sinh con, trong khi khoản 2 lại lẫn giữa quyền và nghĩa vụ về bảo vệ sức khỏe sinh sản, làm giảm tính tường minh. Dự thảo cũng chưa bao quát hết các quyền như được tư vấn, hỗ trợ tài chính, và nghĩa vụ như trách nhiệm nuôi dạy con, bảo đảm quyền trẻ em. Đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo chỉnh lý theo hướng rõ ràng, dễ áp dụng hơn.
Liên quan đến duy trì mức sinh thay thế (Điều 13), đại biểu cho rằng cần bổ sung thêm hai nội dung: hỗ trợ tài chính, ưu tiên y tế hoặc giáo dục cho gia đình sinh con gái ở khu vực có tỷ số giới tính khi sinh cao; và thúc đẩy các chính sách cải thiện vị thế kinh tế, xã hội của phụ nữ, bao gồm hỗ trợ việc làm, đào tạo nghề, tuyên truyền đảm bảo quyền thừa kế bình đẳng.
Về hỗ trợ, chăm sóc người cao tuổi (Điều 17), đại biểu Trịnh Thị Tú Anh đề nghị bổ sung nội dung “ưu tiên cung cấp dịch vụ cho người cao tuổi cô đơn, mắc bệnh mãn tính, khuyết tật, hoặc sống ở vùng sâu, vùng xa”, nhằm bảo đảm công bằng xã hội và phản ánh đúng thực tế già hóa dân số nhanh.
“Theo thống kê, khoảng 10% người cao tuổi Việt Nam sống một mình, đặc biệt ở nông thôn, đối mặt nhiều khó khăn trong tiếp cận y tế, chăm sóc và hỗ trợ xã hội. Việc bổ sung quy định này thể hiện nguyên tắc nhân văn, không để ai bị bỏ lại phía sau”, đại biểu nhấn mạnh.
Nguồn: https://daibieunhandan.vn/hoan-thien-hanh-lang-phap-ly-de-bao-chi-bat-kip-thoi-dai-so-10392633.html
Bình luận (0)