Đây không chỉ là định hướng mang tính chiến lược mà còn là yêu cầu tất yếu trong bối cảnh thế giới đang chuyển mạnh sang nền kinh tế tri thức và thời đại trí tuệ nhân tạo, nơi tri thức và sáng tạo trở thành nguồn lực cốt lõi cho sự phát triển để con người là trung tâm của mọi đổi mới.
Thể chế đủ linh hoạt để không kìm hãm đổi mới
Theo Tiến sĩ Tô Văn Trường (Hội Thủy lợi Việt Nam) đánh giá, dự thảo Báo cáo Chính trị đã đề ra ba nhóm giải pháp lớn để phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đó là đột phá về thể chế và chính sách; phát huy và nâng cao năng lực khoa học, công nghệ quốc gia; xây dựng và hoàn thiện hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia.
Thể chế được coi là “nguồn lực của mọi nguồn lực”, do đó phải đủ năng động để khuyến khích sáng tạo, đủ linh hoạt để không kìm hãm đổi mới và đủ minh bạch để bảo vệ những người dám nghĩ, dám làm. Cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách trong nghiên cứu, đầu tư, đấu thầu, cơ chế tài chính và đặt hàng sản phẩm khoa học. Các quy định phải hướng đến cởi mở, khuyến khích thử nghiệm, cho phép áp dụng cơ chế “sandbox” thử nghiệm có kiểm soát đối với các mô hình, sản phẩm mới. Chính sách cần thực sự tạo niềm tin và động lực cho đội ngũ nghiên cứu, doanh nghiệp và nhà sáng tạo, coi đổi mới là con đường phát triển, chứ không chỉ là khẩu hiệu.
Giải pháp thứ hai là phát huy và nâng cao tiềm lực khoa học, công nghệ quốc gia. Cụm từ “nâng cao tiềm lực khoa học, công nghệ” cần được hiểu không chỉ là gia tăng nguồn lực mà còn là việc khai thác và chuyển hóa tiềm năng thành năng lực thực tế. Một quốc gia hiện đại phải có năng lực nghiên cứu, ứng dụng và làm chủ công nghệ, chứ không chỉ dừng ở tiềm năng. Vì vậy, cần tập trung đầu tư có trọng điểm cho các lĩnh vực chiến lược như năng lượng sạch, công nghệ sinh học, vật liệu mới, tự động hóa, trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn. Cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D) phải được cụ thể hóa bằng ưu đãi về thuế, tín dụng và quyền sở hữu trí tuệ tương xứng với kết quả sáng tạo.
Tiến sĩ Tô Văn Trường nhấn mạnh, đội ngũ trí thức trẻ, các doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là nguồn lực quý giá cần được khơi dậy và phát huy hiệu quả; cần tạo điều kiện thuận lợi về pháp lý, tài chính và môi trường nghiên cứu để họ có thể đóng góp thiết thực cho sự phát triển của đất nước. Mỗi sáng kiến, mỗi dự án hợp tác về khoa học, công nghệ hay chuyển đổi số đều có thể trở thành bước tiến góp phần giúp Việt Nam rút ngắn khoảng cách phát triển so với các quốc gia tiên tiến.
Giải pháp thứ ba là xây dựng và hoàn thiện hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia. Trong hệ sinh thái này, doanh nghiệp giữ vai trò trung tâm, viện nghiên cứu và trường đại học là chủ thể tạo tri thức, còn Nhà nước là kiến trúc sư thể chế và nhà đầu tư hạ tầng. Mối liên kết “ba nhà”, Nhà nước, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp, cần được củng cố bằng cơ chế hợp tác thực chất, đảm bảo lợi ích hài hòa và trách nhiệm rõ ràng. Cùng với đó, cần nuôi dưỡng văn hóa đổi mới sáng tạo trong toàn xã hội, khuyến khích chấp nhận cái mới, dám thử, dám sai và dám sửa. Văn hóa đổi mới phải thấm sâu không chỉ trong giới nghiên cứu mà cả trong hoạt động quản lý nhà nước, giáo dục và sản xuất kinh doanh.
Bên cạnh đó, cần mở rộng hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, kết nối hệ sinh thái sáng tạo trong nước với mạng lưới sáng tạo toàn cầu. Việc thu hút các tập đoàn công nghệ hàng đầu, các tổ chức nghiên cứu quốc tế, cùng với việc phát huy vai trò của trí thức và doanh nhân người Việt Nam ở nước ngoài sẽ giúp Việt Nam tiếp cận nhanh hơn với công nghệ tiên tiến, phương pháp quản trị hiện đại và nguồn lực đầu tư chất lượng cao.
Cần đầu tư mạnh mẽ vào khoa học công nghệ
Về nội dung được dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ: “Quản lý và sử dụng tài nguyên; bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai được tăng cường; thể chế, chính sách từng bước được hoàn thiện; năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu được nâng lên; sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, các địa phương chặt chẽ, hiệu quả hơn”, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Khoát, chuyên gia Viện Nghiên cứu và Phát triển ngành nghề nông thôn Việt Nam cho rằng, đây là những định hướng có ý nghĩa chiến lược, phản ánh rõ tầm nhìn phát triển toàn diện và bền vững của Việt Nam trong giai đoạn mới.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Xuân Khoát, trong bối cảnh thế giới chuyển dịch mạnh mẽ sang mô hình tăng trưởng xanh, phát thải thấp và thích ứng với biến đổi khí hậu, Việt Nam đã khẳng định rõ cam kết và trách nhiệm của mình với cộng đồng quốc tế khi hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Từ đó, việc cụ thể hóa các định hướng lớn trong Dự thảo Văn kiện như quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo đảm an ninh nguồn nước, xây dựng hạ tầng thích ứng khí hậu, phát triển kinh tế tuần hoàn và số hóa quản trị môi trường là bước đi cần thiết để gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ hệ sinh thái tự nhiên.
Tiến sĩ Nguyễn Xuân Khoát cho rằng, bảo vệ môi trường không còn là nhiệm vụ riêng của các cơ quan quản lý, mà là trách nhiệm chung của toàn xã hội, trong đó Nhà nước giữ vai trò điều phối và kiến tạo, doanh nghiệp là lực lượng thực thi, còn người dân là chủ thể hưởng lợi. “Nếu biết biến thách thức môi trường thành cơ hội phát triển xanh, Việt Nam sẽ vừa nâng cao năng lực cạnh tranh, vừa tạo dựng hình ảnh một quốc gia phát triển bền vững, có trách nhiệm với tương lai”, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Khoát nhấn mạnh.
Để hiện thực hóa các mục tiêu này, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Khoát đề xuất ba nhóm giải pháp trọng tâm đó là: Đầu tư mạnh mẽ vào khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực môi trường, đặc biệt là công nghệ tái chế, năng lượng sạch và nông nghiệp hữu cơ; hoàn thiện hệ thống chính sách, cơ chế tài chính và thị trường tín chỉ carbon nhằm khuyến khích doanh nghiệp chuyển đổi sang mô hình sản xuất xanh, tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải; tăng cường hợp tác quốc tế và vai trò của cộng đồng trong quản lý tài nguyên và ứng phó thiên tai, gắn kết giữa tri thức bản địa với khoa học hiện đại để nâng cao năng lực thích ứng. "Việt Nam đang đứng trước thời điểm quan trọng để lựa chọn mô hình phát triển phù hợp. Nếu kiên định con đường tăng trưởng xanh, lấy con người và thiên nhiên làm trung tâm, chúng ta sẽ có cơ hội đạt được tăng trưởng cao nhưng vẫn giữ vững được nền tảng môi trường cho thế hệ mai sau", Tiến sĩ Nguyễn Xuân Khoát chia sẻ.
Nguồn: https://baotintuc.vn/xay-dung-dang/khuyen-khich-chap-nhan-cai-moi-dam-thu-va-dam-sua-20251104092639994.htm






Bình luận (0)