Những ngôi trường “thay áo mới” giữa vùng cao
Trong giai đoạn 2022-2025, tỉnh ưu tiên nguồn lực đầu tư cho các xã thuộc phạm vi Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 17/5/2021 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh và các xã vừa ra khỏi diện đặc biệt khó khăn. Hệ thống trường lớp vùng đồng bào DTTS và miền núi được quan tâm đầu tư ngày càng khang trang, đáp ứng nhu cầu học tập, yêu cầu đổi mới giáo dục, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học.

Ngoài nguồn vốn ngân sách tỉnh hỗ trợ các địa phương nguồn vốn từ Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới, vốn thực hiện Chương trình tổng thể phát triển bền vững kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm vững chắc quốc phòng - an ninh ở các xã, thôn, bản vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo trên địa bàn tỉnh theo Nghị quyết số 06-NQ/TU, các địa phương chủ động triển khai thực hiện các dự án đầu tư, trong đó có đầu tư các trường học các cấp với tổng kinh phí khoảng 389.236 triệu đồng, với kết quả đầu tư cải tạo, xây dựng được 30 trường học thuộc đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo trên địa bàn tỉnh. Nhờ sự quan tâm đó, diện mạo giáo dục vùng khó đã có bước chuyển mình mạnh mẽ: Phòng học kiên cố, sân chơi, nhà ăn, nhà nội trú khang trang...
Đến nay, toàn tỉnh có 11.765 phòng học, trong đó 11.272 phòng học kiên cố, đạt tỷ lệ 95,8%. Ở nhiều địa phương như Bình Liêu, Ba Chẽ, Tiên Yên, Hải Hà… hình ảnh học sinh dân tộc được học trong lớp học sạch đẹp, sử dụng thiết bị hiện đại, đã không còn là điều xa vời. Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia của toàn tỉnh đạt 92,07% (569/618 trường), một con số ấn tượng, thể hiện rõ bước tiến của giáo dục vùng cao Quảng Ninh trong hành trình chuẩn hóa và hiện đại hóa.
Việc đầu tư đồng bộ cơ sở vật chất, từ phòng học, nhà ăn, ký túc xá đến thiết bị dạy học, không chỉ giúp học sinh DTTS có môi trường học tập tốt hơn mà còn góp phần nâng cao chất lượng dạy học, tạo sự công bằng trong tiếp cận giáo dục cho mọi vùng miền.
Đặc khu Cô Tô (huyện Cô Tô cũ) đã dành sự quan tâm đặc biệt cho việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, đồng thời chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Đến nay, toàn bộ 10/10 trường học trên địa bàn được công nhận đạt chuẩn quốc gia cấp độ 1. Đáng chú ý, đến năm 2024 đã có 2 trường đạt chuẩn quốc gia cấp độ 2. Việc đầu tư trường lớp, trang thiết bị mới không chỉ cải thiện điều kiện học tập cho học sinh, mà còn tạo động lực đổi mới phương pháp giảng dạy, ứng dụng công nghệ thông tin, đáp ứng yêu cầu chương trình giáo dục phổ thông mới. Đây là bước tiến vượt bậc so với giai đoạn trước, khẳng định quyết tâm của Cô Tô trong việc xây dựng hệ thống giáo dục hiện đại, chất lượng cao.
Trường PTDT Nội trú Ba Chẽ cũng là một trong những công trình trường học tại vùng đồng bào DTTS được sự quan tâm đầu tư lớn của tỉnh. Hiện nay, trường có nhà học 4 tầng với 16 phòng học; nhà đa năng; nhà ở học sinh 5 tầng gồm 3 tầng phòng ở (mỗi tầng 11 phòng), tầng trệt là nhà ăn và phòng sinh hoạt tập thể. Khu nhà học bộ môn, khu hiệu bộ được cải tạo, nâng cấp đồng bộ. Ngoài ra, trường còn có sân bóng đá, sân giáo dục thể chất với đường chạy đạt chuẩn quốc tế bao quanh sân. Công trình không chỉ mang lại diện mạo khang trang, hiện đại mà còn mở ra môi trường học tập, sinh hoạt toàn diện cho học sinh DTTS nơi vùng cao.

Với những thuận lợi trên cơ sở vật chất của trường hiện đạt tiêu chuẩn trường chất lượng cao, trường chuẩn quốc gia cấp độ 2, bảo đảm chỗ học, ăn, nghỉ cho học sinh; giúp đội ngũ cán bộ, giáo viên yên tâm công tác, tiếp tục đổi mới phương pháp giảng dạy để nâng cao chất lượng giáo dục.
Từ năm 2021 đến nay, công tác đầu tư, cải tạo và nâng cấp cơ sở vật chất giáo dục được xem là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu. Được sự quan tâm của tỉnh, các địa phương triển khai nhiều dự án quy mô lớn, góp phần tạo nên diện mạo mới cho ngành giáo dục địa phương, như: Các dự án cải tạo, nâng cấp Trường THCS&THPT Hoành Mô (52 tỷ đồng); Trường THPT Bình Liêu (95 tỷ đồng) và Trường Tiểu học Tình Húc (95 tỷ đồng) đã được đầu tư, tạo ra môi trường học tập khang trang, hiện đại.
Song song với việc đầu tư về cơ sở vật chất, ngành giáo dục tỉnh cũng đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong dạy và học, tạo nền tảng để giáo dục vùng khó bắt kịp xu hướng hiện đại. Nhiều trường đã triển khai mô hình lớp học thông minh, tổ chức học trực tuyến kết hợp trực tiếp, mở ra cơ hội tiếp cận tri thức cho học sinh dù ở vùng sâu, vùng xa.
Hỗ trợ thiết thực - nâng bước học trò vùng cao

Học sinh vùng DTTS luôn là đối tượng được quan tâm đặc biệt trong các chính sách của Trung ương và của tỉnh. Theo Nghị định số 66/2025/NĐ-CP của Chính phủ, học sinh vùng DTTS, miền núi, hải đảo được hỗ trợ tiền ăn, tiền ở, gạo và chi phí học tập. Quảng Ninh còn ban hành nhiều nghị quyết đặc thù như Nghị quyết 204/2019/NQ-HĐND, Nghị quyết 248/2020/NQ-HĐND và Nghị quyết 22/2023/NQ-HĐND, nhằm kéo dài chính sách hỗ trợ bán trú cho học sinh ở các xã, thôn vừa ra khỏi diện đặc biệt khó khăn.
Nhờ đó, hàng nghìn học sinh DTTS không còn phải bỏ học giữa chừng vì khó khăn kinh tế. Các em được ăn ở bán trú, học hai buổi/ngày, được quan tâm cả về thể chất lẫn tinh thần. Tại các trường dân tộc nội trú, hình ảnh thầy cô chăm chút từng bữa cơm, giấc ngủ cho học sinh đã trở thành biểu tượng đẹp của tình thầy trò nơi vùng cao.

Chính sách tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non và học sinh tiểu học vùng DTTS cũng được tỉnh triển khai đồng bộ, giúp các em tự tin hơn trong học tập và giao tiếp. Hơn 18.000 học sinh vùng dân tộc đã được thụ hưởng chương trình này, góp phần nâng cao năng lực ngôn ngữ - yếu tố then chốt để các em hòa nhập và tiếp cận tri thức mới.
Không chỉ chú trọng vật chất, ngành giáo dục Quảng Ninh còn xác định con người là yếu tố trung tâm của mọi chính sách. 100% cán bộ quản lý và giáo viên vùng DTTS đã được bồi dưỡng, tập huấn theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018, nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng tổ chức hoạt động giáo dục gắn với đặc thù văn hóa từng dân tộc.
Sở GD&ĐT cũng phối hợp với các trường đại học, tổ chức hàng chục lớp tập huấn nâng cao năng lực, kỹ năng sư phạm, ứng dụng công nghệ và dạy học song ngữ. Việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên người DTTS được quan tâm, nhằm tạo nguồn nhân lực tại chỗ cho các địa phương miền núi, hải đảo.
Giáo dục toàn diện hướng tới tương lai
Tính đến năm 2025, tỷ lệ học sinh DTTS hoàn thành chương trình tiểu học đạt 99,85%, cấp THCS đạt 99,77%. Tỷ lệ người dân từ 15-35 tuổi biết chữ đạt gần 100%, minh chứng cho hiệu quả của các chương trình phổ cập giáo dục và xóa mù chữ. 100% xã, phường đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi; tiểu học và THCS đều đạt mức độ 3 - mức cao nhất trong hệ thống đánh giá quốc gia.

Bên cạnh đó, các chương trình giáo dục bình đẳng giới, phòng chống tảo hôn, hôn nhân cận huyết, giáo dục pháp luật, định hướng nghề nghiệp… được triển khai sâu rộng, tạo chuyển biến rõ rệt trong nhận thức của học sinh và cộng đồng. Nhiều học sinh DTTS đã tự tin bước ra khỏi bản làng, theo học tại các trường đại học, cao đẳng trong và ngoài tỉnh, trở thành niềm tự hào của quê hương.
Trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp, từ năm 2021 đến giữa 2025, toàn tỉnh đã tuyển sinh hơn 173.000 học viên, trong đó hơn 2.400 là lao động người DTTS. Con số này cho thấy giáo dục nghề nghiệp đang trở thành hướng đi thiết thực, giúp thanh niên vùng cao có việc làm ổn định và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Nhìn lại chặng đường đã qua, có thể thấy công tác giáo dục vùng DTTS của tỉnh không chỉ là nhiệm vụ chuyên môn của ngành, mà còn là giải pháp chiến lược trong thực hiện Nghị quyết 06 của Tỉnh ủy về phát triển kinh tế, xã hội gắn với củng cố quốc phòng, an ninh ở các vùng đặc thù.

Phát triển giáo dục và đào tạo luôn được coi là chìa khóa để nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, tạo động lực phát triển bền vững cho vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo.
Thực tế, những kết quả đạt được trong giai đoạn 2021-2025 đã minh chứng cho tầm nhìn đó. Giáo dục trở thành cầu nối, giúp thu hẹp khoảng cách vùng miền, tạo ra những thế hệ học sinh DTTS tự tin, năng động và có khả năng hội nhập.
Tại các địa phương từng là vùng khó khăn nhất của tỉnh thì nay đã có tỷ lệ phổ cập giáo dục đạt chuẩn cao, trường lớp kiên cố, môi trường học tập xanh sạch đẹp, đội ngũ giáo viên tại các trường dân tộc nội trú và bán trú không chỉ là người truyền đạt tri thức, mà còn là “người cha, người mẹ thứ hai” của học sinh. Họ hiểu phong tục, thấu tâm lý và đồng hành cùng học trò trong từng bước trưởng thành. Nhiều giáo viên đã gắn bó cả đời với vùng cao, vượt qua khó khăn về địa hình, thời tiết, điều kiện sống chỉ với một mong muốn duy nhất: “Không để em nhỏ nào bị bỏ lại phía sau”. Đây chính là những minh chứng sống động cho hiệu quả của các chính sách đúng hướng.
Dẫu vậy, hành trình xây dựng nền giáo dục công bằng vẫn còn không ít thách thức. Ở nhiều xã vùng cao, đời sống người dân còn khó khăn, điều kiện học tập của học sinh còn hạn chế. Một bộ phận phụ huynh vẫn giữ tư tưởng “học ít, làm nhiều”, dẫn đến tình trạng học sinh bỏ học sớm để lao động. Công tác tuyển dụng, giữ chân giáo viên vùng cao cũng gặp khó do chế độ đãi ngộ chưa thật sự hấp dẫn, một số trường vẫn thiếu giáo viên chuyên biệt như tiếng Anh, tin học, mỹ thuật… Dẫu vậy, với quyết tâm của cả hệ thống chính trị, sự đồng lòng của nhân dân và thầy cô, những khó khăn ấy đang từng ngày được tháo gỡ.
Ngành giáo dục Quảng Ninh sẽ tiếp tục ưu tiên nguồn lực đầu tư cho vùng đồng bào DTTS, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt. Mỗi ngôi trường đạt chuẩn, mỗi học sinh được đến lớp là một bước tiến vững chắc trên con đường thực hiện công bằng trong giáo dục.
Bước sang giai đoạn mới, Quảng Ninh tiếp tục đặt mục tiêu 100% trường học vùng DTTS đạt chuẩn quốc gia, 100% lớp học kiên cố, hiện đại; mọi học sinh đều được học trong điều kiện tốt nhất. Tỉnh cũng đặt trọng tâm vào chuyển đổi số trong giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên chất lượng cao, thúc đẩy liên kết giữa nhà trường - gia đình - xã hội trong việc nuôi dưỡng thế hệ trẻ.
Song song đó, việc lồng ghép giáo dục văn hóa dân tộc, bảo tồn bản sắc truyền thống vào chương trình giảng dạy giúp học sinh không chỉ giỏi tri thức, mà còn tự hào về nguồn cội, có bản lĩnh vững vàng trong hội nhập.
Giáo dục vùng dân tộc thiểu số Quảng Ninh hôm nay không chỉ mang ý nghĩa “dạy chữ”, mà còn là dạy làm người, dạy khát vọng vươn lên. Mỗi phòng học kiên cố, mỗi trường đạt chuẩn quốc gia là sự nỗ lực không ngừng trong hành trình gieo mầm tri thức tại vùng cao, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu Nghị quyết 06 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh.
Nguồn: https://baoquangninh.vn/nang-cao-chat-luong-giao-duc-vung-kho-3380621.html
Bình luận (0)