
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đã đạt được, các nhà khoa học nữ còn gặp nhiều khó khăn thách thức, cần được nhận diện để kịp thời đưa ra những giải pháp phù hợp, nhằm khuyến khích “một nửa thế giới” đóng góp tích cực hơn vào công tác nghiên cứu, phát triển khoa học-công nghệ, một lĩnh vực mũi nhọn đang được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm trong kỷ nguyên mới.
Những đóng góp đáng tự hào
Tiến sĩ Nguyễn Quốc Sinh, Viện Sử học (Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam) nhận định, người phụ nữ làm khoa học, thường sống trong hai thế giới song song: Một thế giới của tri thức, một thế giới của bổn phận. Giữa hai thế giới ấy, họ phải liên tục chuyển vai từ nhà nghiên cứu trở về làm mẹ, làm vợ, làm con trong một nhịp sống không ngừng nghỉ. Mặc dù bị “giằng co” trong nhiều vai trò khác nhau, nhưng số lượng phụ nữ tham gia công tác khoa học không chỉ ở Việt Nam và trên thế giới đang ngày càng nhiều hơn.
Trong một hội thảo gần đây về trí tuệ nhân tạo, một chuyên gia của Viện Hàn lâm khoa học Việt Nam đã cung cấp số liệu phụ nữ nghiên cứu khoa học ở một số quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Thí dụ, tại Đức, có 14% số nhà nghiên cứu khoa học ở nước này là nữ, Liên minh châu Âu có 33%, Nhật Bản là 15% và Hàn Quốc là 18%. Đặc biệt ở một số nước Đông Nam Á, tỷ lệ nhà khoa học nữ trên tổng số các nhà khoa học chiếm khá cao, tới 52% ở Thái Lan và Philippines. Tại Malaysia và Việt Nam, tỷ lệ nữ giới đã xấp xỉ bằng nam giới tham gia vào các hoạt động khoa học.
Nhiều tấm gương nhà khoa học nữ trở thành niềm tự hào của nền khoa học nước nhà, giành nhiều giải thưởng khoa học quan trọng trong nước và nước ngoài. Trong đó đặc biệt phải kể đến là Giải thưởng Kovalevskaia dành cho phụ nữ các nước đang phát triển có đóng góp xuất sắc trong lĩnh vực khoa học-công nghệ.
Có thể kể tên một số nhà khoa học nữ tiêu biểu như Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Minh Tân (Đại học Bách khoa Hà Nội) với những cống hiến giúp nâng tầm nông sản Việt Nam; Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thị Trâm (Học viện Nông nghiệp Việt Nam) nổi tiếng với công trình nghiên cứu về lai tạo giống lúa, nhất là lúa lai. Phó Giáo sư Hồ Thanh Vân (Trường đại học Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh) tốp 23/100 nhà khoa học tiêu biểu năm 2000 do tạp chí Asian Scientist bình chọn, Giáo sư Nguyễn Thục Quyên, nhà nghiên cứu khoa học vật liệu được trích dẫn nhiều nhất thế giới, một trong những phụ nữ Việt Nam đầu tiên được bầu vào Viện Hàn lâm kỹ thuật Mỹ…
Và còn rất nhiều những cái tên nhà khoa học nữ xuất sắc, như những bông hoa đẹp làm nên hương sắc của khu vườn khoa học nước nhà.
Tại hội nghị toàn quốc về đột phá phát triển khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ngày 13/1/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Với mục tiêu trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2030 và nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045, chúng ta phải coi khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực chủ chốt”. Như vậy, trong thời đại tri thức, không thể bỏ quên một nửa trí tuệ của nhân loại, đó là phụ nữ, trong đó có rất nhiều người tài đang “chờ được mở lối”.
Khó khăn, thách thức và giải pháp
Tiến sĩ Phạm Thị Xuân Nga, Phó Giám đốc Chi nhánh Viện Khoa học xã hội vùng Trung Bộ và Tây Nguyên (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) cho rằng, trong nghiên cứu khoa học, phụ nữ hiện vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn so với nam giới. Đầu tiên là rào cản văn hóa xã hội truyền thống. Quan niệm trọng nam khinh nữ vẫn còn phổ biến trong cộng đồng khiến phụ nữ mất đi cơ hội phát triển. Việc cân bằng giữa sự nghiệp và gia đình luôn là thách thức không dễ giải quyết của nhà khoa học nữ.
Các chính sách đãi ngộ cho nhà khoa học nữ còn nhiều hạn chế, trong khi phụ nữ phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt về thời gian, sản phẩm nghiên cứu trong thời đại công nghệ. Những yếu tố này giải thích vì sao tỷ lệ phụ nữ tham gia nghiên cứu khoa học cao, gần như ngang bằng với nam giới, nhưng số lượng sản phẩm, công trình nghiên cứu lại thấp hơn.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Quách Thị Ngọc An (Trường đại học Sư phạm nghệ thuật Trung ương) nêu một thực tế chị gặp phải trong khi đi điền dã địa phương thu thập tư liệu phục vụ công tác nghiên cứu. Đó là, nhiều di tích văn hóa vẫn còn kiêng kỵ không cho phụ nữ bước vào một số khu vực linh thiêng, như hậu cung đình làng, khu thờ chính trong đền, hay các khu vực cấm trong lăng mộ. Dù các nhà nghiên cứu mang theo giấy giới thiệu, thiết bị nghiên cứu rõ ràng nhưng không ít lần đã bị từ chối vào bên trong khu thờ, hoặc buộc phải “đứng nhìn từ xa” vì… là nữ. Những quan niệm cổ như “phụ nữ có âm khí”, “đền thiêng không cho đàn bà vào” vẫn tồn tại gây khó khăn cho nhà khoa học nữ.
Công tác đào tạo nhà khoa học nữ cũng đang mất cân bằng ở chỗ, số lượng nhà khoa học nữ là con em các vùng đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay mới chỉ “đếm trên đầu ngón tay”. Thiếu cơ chế phát hiện và bồi dưỡng sớm, thiếu hình mẫu truyền cảm hứng và hệ sinh thái học thuật hỗ trợ chúng ta đang “bỏ lỡ” nhiều nhân lực nghiên cứu tiềm năng.
Muốn phát triển đội ngũ nhà khoa học nữ chất lượng, cần có những chính sách khuyến khích riêng và đặc thù. Một số chuyên gia đề xuất nên phát triển Quỹ Khoa học Công nghệ dành cho nhà khoa học nữ. Tiến sĩ Nguyễn Quốc Sinh nhận định, trong các giải thưởng khoa học-công nghệ tầm quốc gia như Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước, số lượng nhà khoa học nữ đoạt giải vẫn chiếm tỷ lệ rất nhỏ.
Do vậy, cần đa dạng hóa hình thức ghi nhận, thiết kế giải thưởng chuyên biệt dành cho nữ giới, nhằm tôn vinh nỗ lực vượt qua rào cản kép giữa công việc và gia đình của nữ giới. Nên quy định tỷ lệ tối thiểu đề tài do nữ chủ trì, hình thành quỹ hỗ trợ quay lại học thuật (reentry grants) cho các nhà khoa học nữ sau thời gian nghỉ sinh con. Cần xây dựng thể chế và môi trường nghiên cứu nhân văn để phụ nữ có thể vừa hoàn thành công việc gia đình, vừa sáng tạo.
Tiến sĩ Rơ-Đăm Thị Bích Ngọc, Viện Xã hội học và Tâm lý học (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) cho rằng, đã đến lúc cần đặt vấn đề phát triển đội ngũ nhà khoa học nữ, đặc biệt là con em đồng bào dân tộc thiểu số, như một nhiệm vụ chiến lược trong phát triển nhân lực quốc gia. Cần xây dựng chính sách học bổng và chương trình phát hiện tài năng nữ từ sớm, ưu tiên học sinh nữ vùng khó khăn, giúp họ tiếp cận môi trường đào tạo tốt hơn trong các ngành khoa học-công nghệ, kỹ thuật, toán học (STEM).
Có cơ chế “đỡ đầu” ở cấp đại học và sau đại học để định hướng nghiên cứu và phát triển nghề nghiệp. Tăng cường truyền thông gương các nữ trí thức dân tộc thiểu số, để họ trở thành hình mẫu lan tỏa, khích lệ các thế hệ sau. Khi một cô gái người Xơ Đăng, Ba Na, Gia Rai, H'Mông, Dao hay Ê Đê... có thể trở thành nhà khoa học, họ không chỉ mang tri thức về cho cộng đồng, mà còn là minh chứng sống cho sức mạnh của giáo dục và bình đẳng giới. Bồi dưỡng những người phụ nữ ấy chính là đầu tư cho sự bền vững của vùng, miền và của cả quốc gia, nơi khoa học không chỉ là tri thức, mà còn là con đường mở ra tương lai.
Nguồn: https://nhandan.vn/nang-cao-vai-tro-cua-phu-nu-trong-phat-trien-khoa-hoc-cong-nghe-post916551.html
Bình luận (0)