Không chỉ là vẻ đẹp hình thể hay phong cách ứng xử, người con gái Huế còn gói ghém trong mình một mã văn hóa đặc thù: từ ngôn ngữ, trang phục, giọng nói đến phong thái sống. Vì vậy, tìm hiểu về hình tượng này chính là chạm vào phần tinh túy của văn hóa Huế.
Những "nàng thơ" của xứ sở Thần kinh thương nhớ |
Áo dài tím và nón bài thơ - “thương hiệu” của Huế
Trang phục là yếu tố quan trọng nhất trong việc kiến tạo hình ảnh người con gái Huế. Đặc trưng rõ nhất chính là áo dài tím - biểu tượng không chỉ của vẻ đẹp dịu dàng mà còn của sự thuần khiết, kín đáo và nỗi buồn man mác. Màu tím trong mỹ cảm Huế được coi là màu của sự hoài niệm, của tình yêu thầm lặng, đằm sâu. Phụ nữ Huế mặc áo dài tím không chỉ để làm đẹp, mà là cách thể hiện bản sắc, định vị bản thân trong không gian văn hóa đặc thù. Trong nhiều bức ảnh du lịch, trong tranh vẽ, trong ký ức của những người từng đến Huế, hình ảnh quen thuộc nhất là một thiếu nữ trong tà áo dài tím thướt tha. Màu tím ấy không chói gắt, cũng không nhạt nhòa, mà lặng lẽ, sâu thẳm, gợi nhớ nỗi niềm thương nhớ, hoài niệm. Nó trở thành màu đặc trưng để gọi tên Huế - “Huế tím mộng mơ”.
Áo dài ngũ thân - loại áo truyền thống có từ thời Nguyễn - cũng là biểu tượng gắn liền với hình ảnh người phụ nữ Huế trong các dịp lễ hội hoặc sự kiện nghi lễ. Chiếc nón bài thơ, với hình ảnh chùa Thiên Mụ, cầu Trường Tiền, hoa sen ẩn hiện khi soi sáng qua ánh mặt trời, trở thành dấu ấn thị giác và thi ca, gắn liền với vẻ đẹp nhẹ nhàng mà sâu lắng của người con gái đất Thần kinh.
Trang phục ấy là một phần không thể tách rời của quá trình kiến tạo bản dạng giới. Người con gái Huế không chỉ mặc áo dài như một thói quen, mà chính qua việc “mặc như thế”, họ đang lặp lại - và từ đó duy trì - một hình mẫu nữ tính văn hóa được chuẩn hóa qua nhiều thế hệ.
Bên cạnh áo dài là chiếc nón bài thơ - loại nón lá mỏng, soi dưới ánh sáng có thể thấy hình vẽ sông Hương, núi Ngự, câu thơ nho nhỏ. Đó là một sáng tạo dân gian tinh tế, kết hợp giữa công năng che nắng và giá trị thẩm mỹ, nghệ thuật. Khi thiếu nữ Huế vừa đội nón bài thơ vừa khoác áo dài tím, hình ảnh ấy đã vượt ra ngoài đời thường để trở thành biểu tượng thị giác của Huế trong lòng bạn bè quốc tế.
Giọng nói Huế - biểu tượng thính giác Tiếng Huế đặc trưng bởi âm điệu mềm, chậm rãi, với những từ ngữ địa phương như “răng, mô, chi, rứa”. Khi cất lên từ giọng nữ, nó tạo nên cảm giác ngọt ngào, duy cảm, vừa e ấp vừa gần gũi. Đây không chỉ là một phương tiện giao tiếp, mà là dấu hiệu nhận diện bản sắc. Trong tiếp cận nhân học biểu tượng, giọng nói không chỉ là hệ thống ký hiệu trung lập, mà là phương tiện kiến tạo và truyền tải ý nghĩa văn hóa. Khi người con gái Huế cất tiếng chào, hỏi thăm hay bày tỏ cảm xúc, ngôn ngữ của họ lập tức tạo ra không gian văn hóa: một không gian tĩnh tại, đầy ẩn ý, nơi lời nói không bao giờ trực tiếp mà luôn bao phủ bởi tầng nghĩa xã giao - đạo đức - cảm xúc. |
Phụ nữ Huế duyên dáng trong áo dài - nón lá |
Trong xã hội truyền thống, đặc biệt dưới thời nhà Nguyễn - nơi quy phạm đạo đức Nho giáo đóng vai trò chi phối, người con gái Huế giữ những vị trí quan trọng nhưng kín đáo trong cấu trúc gia đình và xã hội. Trong gia đình, họ là người giữ nếp nhà, gìn giữ phong tục, truyền thống, lễ nghi. Hình ảnh “mẹ Huế”, “chị Huế”, “nàng Huế” luôn gắn liền với đức tính chịu thương chịu khó, tiết hạnh và sâu sắc.
Huế từng là kinh đô triều Nguyễn - nơi hội tụ tầng lớp quý tộc và trí thức. Trong môi trường đó, phụ nữ Huế giữ vai trò quan trọng trong việc gìn giữ nếp nhà, dạy dỗ con cái, duy trì lễ nghi.
Nhiều nhân vật lịch sử nữ của Huế đã trở thành tấm gương về trí tuệ và phẩm hạnh: Hoàng hậu Nam Phương, biểu tượng của sự thanh nhã, trí thức; Từ Dụ Thái hậu, người được ca ngợi về đức độ và tấm lòng nhân hậu. Họ không chỉ góp phần giữ ổn định cung đình mà còn để lại dấu ấn trong văn hóa cung nữ, lễ nghi và phong tục.
Ở tầng lớp bình dân, người con gái Huế cũng được nuôi dưỡng trong tinh thần nền nã, khéo léo, biết ứng xử “trên kính dưới nhường”. Vẻ đẹp ấy không phô trương, mà lặng lẽ tỏa sáng trong đời sống thường nhật.
Cũng cần nhấn mạnh rằng, chính trong những vị trí “ẩn mình” đó, người phụ nữ Huế tích lũy và tái sản xuất một hệ thống thói quen hóa đặc trưng, từ lời ăn tiếng nói đến cách ứng xử và giáo dưỡng con cái. Chính điều đó làm nên sự bền vững của hình tượng người con gái Huế qua nhiều thế hệ.
Vẻ đẹp dịu dàng còn mãi
Không có hình tượng phụ nữ nào trong văn hóa Việt Nam được thi ca hóa nhiều như người con gái Huế. Từ ca dao dân gian đến văn học hiện đại, người con gái Huế xuất hiện với tư cách là “nàng thơ” của đất thần kinh. Những câu ca dao như:
Ai ra xứ Huế mộng mơ
Mua về cho tớ nón thơ với trầu
Hay hình ảnh trong thơ Hàn Mặc Tử:
Em là gái Huế hay Đồng Nai
Em có yêu chăng cớ nói hoài…
Thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Bửu Ý, Thu Bồn, Tôn Nữ Hỷ Khương… đều lấy hình tượng người con gái Huế làm trung tâm để kiến tạo một không gian trữ tình - duy cảm. Những bài hát như Ai ra xứ Huế, Tím cả rừng chiều, Thiếu nữ bên dòng Hương Giang… đã thêu dệt nên hình tượng ấy với sắc tím, sương mù, nhịp điệu chậm rãi và vẻ đẹp man mác.
Trong hội họa, điêu khắc, nhiếp ảnh, thiếu nữ Huế thường xuất hiện bên sông Hương, cầu Trường Tiền, giữa vườn ngự uyển hay trước mái chùa cổ kính. Họ là nàng thơ bất tận cho sáng tạo nghệ thuật.
Người con gái Huế không chỉ hiện diện như một cá thể sinh học hay xã hội, mà còn như một biểu tượng tập thể, kết tinh từ hàng trăm năm văn hóa Cố đô. Ở họ, ta tìm thấy sự kết hợp hài hòa giữa hình thức và tâm hồn: nền nã mà sâu lắng, giản dị mà thanh tao.
Trong dòng chảy hiện đại, có thể nhiều giá trị đã biến đổi, nhưng hình tượng người con gái Huế vẫn luôn là điểm tựa ký ức cho cộng đồng, là chất liệu không bao giờ vơi cạn cho nghệ thuật và truyền thông. Nhắc đến Huế, người ta sẽ mãi nhớ đến tà áo tím, giọng nói ngọt ngào và bóng dáng thiếu nữ bên sông Hương – một vẻ đẹp dịu dàng trong dòng chảy văn hóa Việt.
TUV, Phó Trưởng Đoàn ĐBQH TP. Huế
Hội viên Hội VHNT các DTTSVN
Nguồn: https://huengaynay.vn/van-hoa-nghe-thuat/nguoi-con-gai-hue-bieu-tuong-diu-dang-trong-dong-chay-van-hoa-viet-157346.html
Bình luận (0)