Văn miếu Mao Điền và trường thi Hương qua hình ảnh và các văn bia ghi lại những lần trùng tu, cho thấy là văn miếu hàng tỉnh được xây dựng sớm ở miền Bắc
Văn miếu Mao Điền nằm trong điểm đến mà chúng tôi chọn trước khi đến tỉnh Hải Dương. Tham quan từng không gian trong Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt này, chúng tôi cảm nhận được người dân xứ Đông truyền giữ tinh thần rạng danh "đất học".
Vun bồi qua thăng trầm
Hai bên lối đi từ quốc lộ vào cổng Văn miếu Mao Điền khiến người ta phải bước chậm rãi để đọc từng bức vẽ đại tự, một bên là "Hiếu học - Chuyên cần - Minh chí - Công danh - Đăng khoa"; một bên là "Bình an - Thành đạt - Thịnh vượng - Đỗ đạt - Trí tuệ", đã thấy tinh thần "Nơi tôn vinh đạo học xứ Đông" được nhấn mạnh.
Trường thi Hương với một dãy lều chõng được phục dựng
Hải Dương là một trong "tứ trấn" quanh kinh thành Thăng Long dưới thời hậu Lê, do nằm ở vùng phía Đông nên dưới triều Tây Sơn được đặt là xứ Đông, gồm 4 phủ là Thượng Hồng, Hạ Hồng, Nam Sách, Kinh Môn; chia thành 18 huyện, đất đai trải rộng các tỉnh Hải Dương, TP Hải Phòng, một phần của tỉnh Quảng Ninh và Hưng Yên ngày nay.
Đầu triều Nguyễn, tên gọi trấn Hải Dương được sử dụng lại rồi đổi thành tỉnh Hải Dương, gồm 4 phủ là Bình Giang, Ninh Giang, Nam Sách, Kinh Môn, cũng chia thành 18 huyện.
Văn miếu trấn Hải Dương được xây dựng từ thời Lê Sơ (thế kỷ XV) tại xã Vĩnh Lại, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng (nay thuộc xã Vĩnh Tuy, huyện Bình Giang), đến thời Tây Sơn, được chuyển về xã Mao Điền (nay là xã Cẩm Điền, huyện Cẩm Giàng), hợp nhất với trường thi Hương thành một trung tâm văn hóa - giáo dục của xứ Đông và đặt tên Văn miếu Mao Điền. Người xưa còn gọi nơi này là "Đất văn minh".
Thông tin về Văn miếu Mao Điền và trường thi Hương được giới thiệu qua nhiều hình ảnh và còn trên các văn bia ghi lại những lần trùng tu, cho thấy đây là văn miếu hàng tỉnh được xây dựng sớm ở miền Bắc.
Cầu đá bắc qua Thiên quang tỉnh
Văn miếu hiện lưu giữ 3 tấm văn bia cổ ghi những lần tôn tạo, trùng tu di tích. Văn bia "Tân Dậu trọng thu cốc nhật tạo" được lập vào tháng 8 năm Tân Dậu 1801 (thời Tây Sơn) ghi: "Vua ra chỉ dụ đặc biệt lệnh cho ở phía Bắc, các trấn thành đều đặt viên quan đốc học với nhiệm vụ quản lý giáo dục, thực thi quy tắc về giáo dục, để lúc có sự gì đặc biệt thì cái nghĩa tốt đẹp sùng đạo học cũng vẫn là vậy… Hiện quyền lợi về việc học của bản trấn chưa đầy đủ nên cho phủ Thượng Hồng làm nhà học cung, làm nơi tế lễ".
Từ chỉ dụ đó, các quan chọn ở xã Mao Điền, thuộc phía Bắc trấn Hải Dương khu ruộng tương đương 36.000 m2 làm trường học. Công việc bắt đầu từ mùng 2-1 đến 26-7 Tân Dậu hoàn thành. Văn miếu trở thành "nơi để trăm người cung kính thực hiện lễ tế thánh, là nơi kẻ sĩ luyện chữ".
Mặt sau bia tiến sĩ khắc chữ quốc ngữ
Vào thời nhà Nguyễn, tháng 10 năm Bính Dần 1806, Văn miếu tiếp tục được trùng tu, hoàn thành vào tháng 8 năm Đinh Mão 1807. Bia "Trùng tu Văn miếu bi ký", ghi việc tu bổ Miếu vũ, Miếu môn, nhà Đông vu, Tây vu, làm thêm đỉnh (lư hương), xây đền Khải Thánh ở phía Tây. Hai hành lang phía Nam miếu là nơi thờ thầy dạy học ở bậc thánh sư. Bên trái có lầu Kim Thanh (lầu chuông đồng), bên phải có lầu Ngọc Chấn (lầu khánh đá).
Khuê Văn Các riêng một lầu. Trước Khuê Văn Các là cổng hai tầng, có lối đi ở giữa. Trong "Trùng tu Văn miếu bi ký" khẳng định: "Văn miếu đã có quy chế hoạt động và chọn đất cho trường thi. Trải qua các triều đại, Văn miếu có hình thế tôn nghiêm, là danh thắng ở phên dậu phía Đông của kinh thành". Sau đó 16 năm, Văn miếu Mao Điền tiếp tục được trùng tu vào năm 1823, triều vua Minh Mạng.
Văn miếu Mao Điền là điểm đến không thể bỏ qua khi đến tỉnh Hải Dương
Những di vật cổ còn được giữ gìn là đỉnh hương bằng đá và khánh đá từ thời Tây Sơn. Cây gạo trồng từ năm 1801 ở sân trước tòa Bái đường cứ vào tháng ba là hoa nở đỏ rực.
Văn miếu đặt trên đất Mao Điền đã hơn 200 năm. Giai đoạn 1947 - 1990 di tích bị xuống cấp nghiêm trọng, đến năm 1991 - 1992 mới được khôi phục, tiếp tục trùng tu qua nhiều năm, mở rộng như hiện nay.
Giáo dục truyền thống hiếu học
Văn miếu môn được phục dựng trên nền cũ (năm 1995), với chính môn, tả môn, hữu môn kiểu vòm cuốn. Bước qua cổng tam quan là một không gian kiến trúc hài hòa, đẹp mắt.
Hai ao lấy nước tưới cây từ thời tạo lập Văn miếu Mao Điền được cải tạo lại vào năm 2002, lấy tên là Thiên quang tỉnh, chính giữa dựng một cầu đá rộng có lan can khắc hoa văn, tạo một đường thông thoáng từ cổng vào tận sân trước nhà Bái đường. Hai nhà che văn bia cổ ở hai bên Thiên quang tỉnh.
Lầu chuông, lầu khánh ở hai bên phía trước nhà Đông vu, Tây vu xây bằng vôi vữa, gạch ngói, đến năm 2004 đã được phục dựng bằng gỗ lim. Khánh đá sứt vỡ được thay bằng chiếc trống đại nên lầu khánh đổi gọi là lầu trống. Chuông cổ ở lầu chuông được thay bằng quả chuông đồng nặng hơn 1 tấn vào năm 2010.
Các vị đại khoa, danh nhân, anh hùng dân tộc qua các triều đại được thờ tự trong Hậu cung
Bái đường, hậu cung là hai tòa nhà chính của Văn miếu, gồm 7 gian làm bằng gỗ lim, trang trí điêu khắc các họa tiết vân xoắn, rồng phượng và hoa lá cách điệu. Năm 2002 - 2004, toàn bộ cột, xà, khung vì ở bái đường, hậu cung được sơn thếp cho thêm lộng lẫy. Các chữ "thọ" ở cổng và dãy tường bao như nói lên mong ước sự trường tồn của Văn miếu.
Trong hậu cung thờ Đức Khổng Tử và bốn học trò thân tín nhất.
Từ năm 2002, bài trí thờ tự có thay đổi: thờ Đức Khổng Tử và 8 vị đại khoa người Việt. Trong đó, 5 tượng đồng danh nhân là Đức Khổng Tử, Tư nghiệp Quốc tử giám Chu Văn An, Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, Anh hùng dân tộc - Danh nhân Văn hóa thế giới Nguyễn Trãi, Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm được đặt trong các khung trang gỗ sơn son, thếp vàng; 4 danh nhân là Đại danh y - Thái học sinh Tuệ Tĩnh, Thần toán Việt Nam Vũ Hữu, Nhập nội Hành khiển Phạm Sư Mệnh, Nghi Ái quan Nguyễn Thị Duệ được lập bàn thờ bài vị.
Các bức vẽ đại tự ở hướng đi vào Văn miếu Mao Điền
Thay đổi trong cách thờ tự này thể hiện sự tôn kính những vị đại khoa, tự hào xứ Đông - Hải Dương là nơi sinh, dưỡng nhiều anh hùng, danh nhân trong lịch sử nước Việt, lấy đó giáo dục truyền thống hiếu học cho các thế hệ.
Không tự hào sao được khi trong ngót 1.000 năm tuyển chọn nhân tài, từ kỳ thi đầu tiên của triều Lý năm 1075 đến kỳ thi cuối cùng vào triều Nguyễn năm 1919, đã có 185 khoa thi Đình, tuyển chọn được 2.898 tiến sĩ trên cả nước, thì trong đó đến nay đã biết Hải Dương có 644 người. Trên địa dư hiện tại, tỉnh Hải Dương cũng có 491 tiến sĩ Nho học. Đặc biệt Nghi Ái quan Nguyễn Thị Duệ (thời Mạc) là phụ nữ duy nhất có học vị tiến sĩ trong lịch sử khoa cử phong kiến Việt Nam.
Điểm đến hấp dẫn
Trong lịch sử, Văn miếu Mao Điền vừa là trường quốc lập lớn thứ hai ở miền Bắc sau Văn miếu Quốc tử giám, vừa là một trong những nơi tổ chức thi Hương.
Phía trước, bên phải Văn miếu là trường thi với một dãy lều chõng được phục dựng để người dân hình dung nơi các sĩ tử xưa kia tề tựu dựng lều chõng dự các kỳ thi Hương. Thi Hương có ý nghĩa rất quan trọng, trước hết, thi đỗ sẽ được bổ nhiệm giữ một chức quan bậc chánh cửu phẩm; sau đó có tiêu chuẩn thi tiến sĩ, mở ra đường công danh hanh thông. Muốn thi Hương phải có 2 điều kiện: lý lịch là con nhà lương thiện; trình độ học vấn phải thông hiểu Tứ thư, Ngũ kinh.
Vào triều nhà Mạc, trường thi trấn Hải Dương được chọn làm nơi tổ chức 3 kỳ thi Hội vào các năm 1529, 1532, 1535.
Trường thi Hương trấn Hải Dương tồn tại đến năm 1807. Khi nhà Nguyễn sắp xếp lại hệ thống các trường thi thì năm 1813, trường thi Hương trấn Sơn Nam tổ chức chung cho cả 2 tỉnh Hải Dương và Quảng Yên.
Không còn trường thi, Văn miếu Mao Điền vẫn tiếp tục là nơi nuôi dưỡng tinh thần hiếu học của người xứ Đông, là ngôi trường rèn luyện sĩ tử tiếp tục bước vào các kỳ thi và tỉnh Hải Dương tiếp tục có nhiều sĩ tử được đề tên trên bảng vàng, xướng danh tiến sĩ trong 100 năm khoa bảng Nho học tiếp theo ở triều Nguyễn.
Hai dãy nhà bia ở phía Đông và phía Tây Văn miếu Mao Điền có 14 bia khắc vinh danh tiến sĩ Nho học xứ Đông - là công trình mới xây dựng, mất 10 năm (2006 - 2016) từ khi khởi thảo đến hoàn thành.
Bia thứ nhất nói về truyền thống hiếu học, lịch sử Văn miếu Mao Điền và Phàm lệ soạn văn bia; 13 bia ghi danh tiến sĩ qua các triều đại, được đặt trên lưng rùa đá biểu thị sự bền vững và thiêng liêng. Bia ghi tiến sĩ thời nào thì trang trí hoa văn thời đó. Khắc trên các bia ở mặt chính thể hiện bằng chữ Hán Nôm; mặt sau khắc chữ quốc ngữ - là bản dịch của mặt chính. Mỗi vị tiến sĩ được khắc họ tên, năm sinh, trú quán, khoa thi, học vị, tóm tắt sự nghiệp.
Đối với người dân Hải Dương, bia tiến sĩ không chỉ vinh danh tiền nhân làm rạng danh xứ Đông, mà còn mang ý nghĩa khuyến học, cho thế hệ tương lai lấy đó làm niềm tự hào để vươn lên.
Theo Ban Quản lý Di tích huyện Cẩm Giàng, giữ truyền thống từ xưa, mỗi năm tại Văn miếu Mao Điền diễn ra hai lần lễ hội vào mùa xuân (tháng 2 âm lịch) và lễ dâng hương vào mùa thu (tháng 8 âm lịch) để tưởng nhớ các bậc danh nhân, tiền hiền của đất nước, tôn vinh truyền thống hiếu học. Văn miếu Mao Điền đã trở thành điểm đến của khách du lịch trong nước và nước ngoài tại tỉnh Hải Dương.
"Ở Văn miếu Mao Điền, các đại tự trên các bảng theo hướng ra: một bên là "Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín" song song với "Phú - Quý - Thọ - Khang - Ninh" ở bên đối diện, hàm ý có coi trọng học lấy kiến thức, đạo đức thì đặng đường vinh hoa cho bản thân, giúp ích cho đất nước.
Nguồn: https://nld.com.vn/noi-ton-vinh-dao-hoc-xu-dong-co-gi-dac-biet-196250322201322904.htm
Bình luận (0)