31 giống chè phục vụ đa dạng nhu cầu sản xuất
Bên cạnh lựa chọn các giống chè đem lại năng suất, chất lượng cao thì việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất chè theo tiêu chuẩn hữu cơ là rất cần thiết và tất yếu, mở ra hướng đi mới cho phát triển cây chè trong tương lai.
Cả nước hiện có hơn 120 nghìn ha trồng chè. Khoảng 70% diện tích chè cả nước phát triển chủ yếu ở khu vực Trung du miền núi phía Bắc, ngoài ra cây chè còn phát triển ở một số vùng như Tây Nguyên, Bắc Trung bộ, Duyên hải miền Trung và khu vực đồng bằng Bắc bộ.
Trong đó, giống chè không chỉ đóng vai trò là nền tảng sản xuất mà còn là yếu tố then chốt quyết định đến năng suất, chất lượng và giá trị của các sản phẩm chè.
Khu nghiên cứu giống chè mới chất lượng cao, có khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu tại Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển chè. Ảnh: Ánh Nguyệt.
Là cơ quan nghiên cứu, phát triển giống chè duy nhất trên cả nước, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển chè thuộc Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc (NOMAFSI) đã nghiên cứu, phát triển các giống chè mới, đáp ứng nhu cầu cây giống của người trồng chè.
Đến năm 2024, Trung tâm đã nghiên cứu được 31 giống chè. Trong đó nhóm giống cho sản xuất chè xanh gồm LDP1, Phúc Vân Tiên, PH8, PH10, LCT1, VN15, PH21, Bát Tiên, Hương Bắc Sơn, Kim Tuyên, Thúy Ngọc. Nhóm giống cho sản xuất chè đen gồm PH1, LDP2, PH11, PH12, PH14, PH8, TC4, PH276, PH22. Nhóm giống sản xuất chè ô long gồm Kim Tuyên, Thúy Ngọc, Hương Bắc Sơn, PH10. Nhóm giống sản xuất chè xanh cao cấp gồm Bích Loa Xuân, Mao Tiêm, Xanh thơm, Hương Bắc Sơn, Kim Tuyên, Thúy Ngọc, VN15.
Những giống chè này không chỉ phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu của Việt Nam mà còn đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng và an toàn thực phẩm khắt khe. Về cơ cấu giống theo loại sản phẩm, khoảng 23% giống chè của Việt Nam hiện nay chỉ phù hợp cho chế biến chè đen, 50% diện tích chè phù hợp cho cả chế biến chè xanh và chè đen, 27% diện tích chè thích hợp cho chế biến chè xanh và chè chất lượng cao khác.
Theo TS Nguyễn Thị Hồng Lam, Phó Giám đốc phụ trách Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển chè: Để tiếp tục nâng cao năng suất, chất lượng chè, đồng thời hạn chế sâu bệnh gây hại, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nông dân, thời gian tới, Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc sẽ chú trọng phát triển các giống chè mới có năng suất cao, chất lượng tốt và khả năng chịu hạn nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu, phù hợp với thổ nhưỡng của nhiều vùng sản xuất.
Đoàn công tác của Trung tâm Khuyến nông Hà Tĩnh tham quan, học tập kinh nghiệm tại Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển chè. Ảnh: Ánh Nguyệt.
Đưa giống chè chịu hạn vào Hà Tĩnh
Tại tỉnh Hà Tĩnh, chè là một trong những cây trồng chủ lực. Chè công nghiệp Hà Tĩnh đã được trồng cách đây 50 năm. Đến năm 2012, theo Quyết định số 853/QĐ-UBND ngày 27/3/2012 của UBND tỉnh Hà Tĩnh, cây chè công nghiệp được xác định là cây trồng chủ lực, tập trung tại 3 huyện Hương Sơn, Hương Khê, Kỳ Anh.
Tính đến năm 2024, diện tích chè toàn tỉnh đạt 1.213ha, trong đó diện tích kinh doanh trên 1.132ha; năng suất chè bình quân đạt gần 123 tạ/ha; sản lượng đạt gần 14.000 tấn. Các giống chè chủ yếu được trồng là giống PH1, LDP1, LDP2. Năm 2017, toàn bộ diện tích chè của Hà Tĩnh đã được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGAP.
Sản xuất chè công nghiệp ở Hà Tĩnh đã hình thành được chuỗi giá trị giữa Công ty Cổ phần chè Hà Tĩnh, Tổng đội Thanh niên xung phong - Xây dựng kinh tế mới với các hộ dân theo mô hình khép kín từ khâu cung ứng giống, phân bón, hỗ trợ kỹ thuật và thu mua sản phẩm.
Chè là một trong những cây trồng chủ lực của tỉnh Hà Tĩnh. Ảnh: Ánh Nguyệt.
Những năm qua, chè là một trong những cây trồng giải quyết việc làm và đem lại thu nhập khá cho người dân. Với mỗi ha chè, nông dân có thể thu về bình quân 70 triệu đồng/năm, nếu được đầu tư thỏa đáng, chăm sóc tốt có thể đạt 150 triệu đồng/ha/năm. Không chỉ đem lại thu nhập khá cho bà con và cải thiện bộ mặt kinh tế nông thôn, cây chè còn giúp phủ xanh đất trống đồi trọc, bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, theo phương pháp canh tác truyền thống phổ biến trước đây, trước mỗi lứa thu hoạch, nhằm đảm bảo năng suất và hạn chế sâu bệnh phá hoại, cây chè thường được phun hoặc bón rất nhiều các loại phân bón, thuốc trừ sâu bệnh hóa học. Nhiều nông dân nhẩm tính sơ bộ, hàng năm mỗi nương chè phải “gánh” hàng chục lượt phun thuốc trừ sâu, bón phân. Điều này ảnh hưởng vô cùng lớn và lâu dài đến sức khỏe của chính người canh tác chè, người tiêu dùng cũng như môi trường đất, nước, các loài sinh vật.
Nhằm nâng cao chất lượng, xây dựng nhãn hiệu sản phẩm để khai thác thị trường trong nước, vươn ra xuất khẩu ở các thị trường có giá trị cao, trong 2 năm 2025 - 2026, Trung tâm Khuyến nông Hà Tĩnh phối hợp với NOMAFSI thực hiện dự án “Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật chuyển đổi mô hình sản xuất chè theo tiêu chuẩn hữu cơ tại Hà Tĩnh” với quy mô 15ha tại xã Sơn Kim 2, huyện Hương Sơn.
Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất chè theo tiêu chuẩn hữu cơ mở ra hướng đi mới cho phát triển cây chè trong tương lai. Ảnh: Ánh Nguyệt.
Dự án nhằm mục tiêu cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn hữu cơ cho sản phẩm chè búp tươi với năng suất đạt 15 - 20 tấn/ha chè búp tươi; hiệu quả kinh tế tăng >15%, đồng thời xây dựng được hướng dẫn kỹ thuật sản xuất chè, nhãn hiệu chè hữu cơ phù hợp với điều kiện tại Hà Tĩnh.
Trung tâm Khuyến nông Hà Tĩnh đã thực hiện điều tra, khảo sát lựa chọn hộ dân tham gia dự án tại 4 xã gồm Kỳ Trung (huyện Kỳ Anh); Hương Trà (huyện Hương Khê); Sơn Kim 2 và Sơn Tây (huyện Hương Sơn). Đồng thời tổ chức tham quan, học tập mô hình sản xuất chè hữu cơ tại các tỉnh Phú Thọ, Thái Nguyên cho các hộ dân tham gia dự án; xây dựng mô hình chuyển đổi, ứng dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật sản xuất chè theo tiêu chuẩn hữu cơ.
Ông Nguyễn Hữu Ngọc, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông tỉnh Hà Tĩnh cho biết, dự án thành công sẽ xây dựng được mô hình và tài liệu hướng dẫn sản xuất chè theo tiêu chuẩn hữu cơ đạt hiệu quả, phù hợp với điều kiện tại Hà Tĩnh. Từ đó Trung tâm sẽ phối hợp với các sở, ngành, địa phương và các doanh nghiệp liên quan tổ chức tuyên truyền về kết quả dự án, đồng thời hỗ trợ các địa phương, doanh nghiệp chuyển giao quy trình kỹ thuật, tổ chức sản xuất, từng bước nhân rộng tại các vùng sản xuất chè công nghiệp của tỉnh như các huyện Hương Khê, Hương Sơn, Kỳ Anh.
Hà Tĩnh cần đa dạng hóa các giống chè mới có năng suất cao, chất lượng tốt và khả năng chịu hạn. Ảnh: Ánh Nguyệt.
Theo Thạc sỹ Phùng Lệ Quyên (Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển chè, Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc): Hà Tĩnh có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển cây chè, tuy nhiên điều kiện khí hậu khắc nghiệt cùng với việc các giống chè chưa đa dạng, chủ yếu sử dụng các giống chè cũ như PH1, LDP2… có chất lượng trung bình khá nên năng suất, chất lượng chè chưa cao.
Vì vậy Hà Tĩnh cần đa dạng hóa, đưa các giống chè mới có năng suất cao, chất lượng tốt và khả năng chịu hạn vào sản xuất nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu như PH8, PH9, LCT1, TRI5.0 PH22, Hương Bắc Sơn…
Thực hiện dự án, NOMAFSI đã chuyển giao quy trình sản xuất chè theo tiêu chuẩn hữu cơ, trực tiếp tập huấn kỹ thuật sản xuất chè theo tiêu chuẩn hữu cơ cho các hộ dân, phối hợp, hỗ trợ xây dựng mô hình chuyển đổi, ứng dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật sản xuất, chế biến chè theo tiêu chuẩn hữu cơ, đồng thời phối hợp, hỗ trợ xây dựng tài liệu hướng dẫn kỹ thuật sản xuất chè theo tiêu chuẩn hữu cơ tại Hà Tĩnh.
Nguồn: https://nongnghiep.vn/nomafsi-giup-ha-tinh-thay-mau-giong-che-chuyen-sang-san-xuat-huu-co-d744871.html
Bình luận (0)