Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Sự phát triển nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới

TCCS - Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, hoàn thiện, phát triển không ngừng, là “đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo”(1), nội dung đặc biệt quan trọng trong lý luận về đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thông qua việc làm rõ sự phát triển nhận thức của Đảng ta qua các kỳ Đại hội Đảng 40 năm qua về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xác định bối cảnh, tình hình mới, bài viết đưa ra giải pháp nhằm hiện thực hóa mục tiêu phát triển đất nước.

Tạp chí Cộng SảnTạp chí Cộng Sản23/05/2025

Tổng Bí thư Tô Lâm và các đại biểu tham quan triển lãm "Những thành tựu trong xây dựng và thực thi pháp luật" và "Những thành tựu trong phát triển kinh tế tư nhân và các gian hàng trưng bày sản phẩm của các doanh nghiệp tư nhân"_Ảnh: TTXVN

Bối cảnh lịch sử và quá trình bổ sung, phát triển nhận thức của Đảng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới

Từ đầu những năm 80 thế kỷ XX, mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung ở các nước xã hội chủ nghĩa không còn phù hợp và trở thành nguyên nhân cơ bản gây suy giảm tăng trưởng, đẩy hầu hết nước xã hội chủ nghĩa vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Từ cuối những năm 80 đến đầu những năm 90 thế kỷ XX, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực theo mô hình Xô Viết ở Liên Xô và Đông Âu đã đặt ra yêu cầu cấp bách lựa chọn mô hình kinh tế mới, phù hợp để thay thế mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung. 

Ở trong nước, sau khi đất nước thống nhất, mặt trái của cơ chế kế hoạch hóa tập trung biểu hiện ngày càng rõ nét, trở thành nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình hình kinh tế - xã hội đất nước gặp nhiều khó khăn, gây ra hậu quả nặng nề, làm giảm lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của cơ quan nhà nước, đòi hỏi Đảng nhìn thẳng vào sự thật, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh để đánh giá đúng đắn tình hình, lựa chọn đường lối đổi mới, trước hết là đổi mới kinh tế, phát triển đất nước. Sau 10 năm đầu tiến hành công cuộc đổi mới với việc từng bước vận dụng cơ chế thị trường, mặc dù trong điều kiện bị bao vây, cấm vận, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, cơ bản tạo lập được điều kiện cần thiết ban đầu để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc mở rộng sử dụng có kiểm soát cơ chế thị trường trong những năm tiếp theo về cơ bản đã tạo điều kiện khắc phục khó khăn, thách thức, ổn định tình hình đất nước; sản xuất phát triển, kinh tế tăng trưởng nhanh, đời sống nhân dân được cải thiện; chính trị - xã hội ổn định; hội nhập kinh tế quốc tế từng bước được đẩy mạnh, vai trò, vị thế quốc tế của đất nước được nâng lên, tạo điều kiện mới cho phát triển và hoàn thiện nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đại hội VI của Đảng (1986) đã lựa chọn đường lối đổi mới. Trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”(2), Đảng ta đã thẳng thắn thừa nhận khuyết điểm và sai lầm trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là sai lầm trong nhận thức lý luận kinh tế và hoạch định, thực thi chính sách kinh tế, từ đó quyết liệt đổi mới tư duy phát triển kinh tế nhằm ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo.

Nhận thức rõ “nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ”(3), Đảng ta khẳng định việc xóa bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và với trình độ phát triển của nền kinh tế. Hình thành nhận thức ban đầu về nội dung cơ chế kinh tế mới, trong đó phải sử dụng đầy đủ và đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ trong kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân, theo đó Nhà nước không can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của xí nghiệp mà thực hiện vai trò kiểm soát và điều tiết xí nghiệp và đơn vị sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế bằng pháp luật, chính sách, ứng dụng giải pháp tiến bộ kỹ thuật. Việc sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ phải hướng vào giải quyết đúng đắn các mối quan hệ về lợi ích; trong đó, lợi ích của người sản xuất, kinh doanh là động lực trực tiếp đối với hoạt động kinh tế và tạo cơ sở cho việc đáp ứng lợi ích khác, đồng thời xây dựng được một cơ cấu kinh tế hợp lý, trước hết là cơ cấu ngành kinh tế, phù hợp với tính quy luật về sự phát triển các ngành sản xuất vật chất, phù hợp với khả năng của đất nước và phù hợp với sự phân công lao động và hợp tác quốc tế... Tư duy mới kể trên về tính tất yếu khách quan của việc sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ trong cơ chế kinh tế đã đặt nền móng cho đột phá lý luận cơ bản của Đảng ta về mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thời kỳ đổi mới.

Từ thực tiễn khôi phục nền kinh tế nhiều thành phần và sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ trong cơ chế kinh tế giai đoạn 1986 - 1990 với kết quả tích cực, Đại hội VII của Đảng (1991) đã đi đến nhận thức “phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là một chủ trương chiến lược lâu dài trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”(4), “Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân”, “thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu”(5). Cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và công cụ khác. Để phát huy vai trò cơ chế thị trường đối với quá trình tái sản xuất, Đảng ta đã nhận thức rõ yêu cầu phải từng bước hình thành và mở rộng đồng bộ các loại thị trường hàng tiêu dùng, tư liệu sản xuất, dịch vụ, thị trường vốn và tiền tệ, thị trường ngoại hối, thị trường sức lao động..., phát triển hình thức thu hút vốn và bảo đảm chu chuyển vốn nhanh. Xây dựng thí điểm thị trường chứng khoán khi có điều kiện, giữ vững độc lập, tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, xây dựng một nền kinh tế mở cả trong và ngoài nước, đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ với nước ngoài; kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh, gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường.

Trồng rừng ngập mặn ở tỉnh Bạc Liêu (Tác giả: Nguyễn Trang Kim Cương)_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới với việc sử dụng cơ chế thị trường, Đại hội VIII của Đảng (1996) nhận thức rõ: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng”(6); từ đó, cần tiếp tục tạo điều kiện cho cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa hoạt động, thông qua tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường, và các loại thị trường. Cùng với nhận định kết quả 10 năm thực hiện đường lối đổi mới đã chuẩn bị được tiền đề cần thiết cho công nghiệp hóa, Đảng ta nhận thức rõ yêu cầu tiếp tục sử dụng cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa để thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhằm mục tiêu xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Song song với đó, xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng sản phẩm trong nước sản xuất hiệu quả.

Kết quả 15 năm đổi mới đã tạo căn cứ thực tiễn thuyết phục cho nhận thức mới đột phá của Đại hội IX của Đảng (2001) về bản chất của sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa(7), đồng thời, chính thức xác định mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chỉ rõ mục đích, chế độ kinh tế, cơ chế vận hành, chế độ phân phối của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời khẳng định tập trung xây dựng và hoàn thiện thể chế về sở hữu, thành phần kinh tế, hệ thống thị trường, kinh tế đối ngoại và thực hiện vai trò của Nhà nước.

Bước tiến mới trong tư duy của Đảng tại Đại hội X (2006) là thống nhất nhận thức: “Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại”, khẳng định sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội(8), tiếp tục bổ sung, cụ thể hóa nội dung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tiếp tục nhấn mạnh để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời phải nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từ đó cần nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước; phát triển đồng bộ và quản lý hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh; phát triển mạnh các thành phần kinh tế, loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh.

Sự phát triển nhận thức của Đảng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Đại hội XI (2011) được phản ánh thông qua nhận định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011): “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là một hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”(9). Đại hội XI đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, trong đó thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định là một trong ba đột phá chiến lược cần được chú trọng thực hiện.

Đại hội XII của Đảng (2016) tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam “là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(10). Đồng thời, đề ra nhiệm vụ phải tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp; phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường; đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế; nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển và cụ thể hóa tinh thần Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tiếp tục khẳng định xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ chiến lược, là khâu đột phá quan trọng, tạo động lực để phát triển nhanh và bền vững, đồng thời nhận thức rõ, đó là quá trình phát triển liên tục; kế thừa chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại và kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta. Trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đã hình thành nhận thức mới về yêu cầu giải quyết mối quan hệ giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong từng giai đoạn; và mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Nhận thức về mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội, quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân có bước tiến quan trọng. Đồng thời, Đại hội XII khẳng định phải tiếp tục đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược, nhất là đột phá về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất, huy động, phân bổ, sử dụng hiệu quả nguồn lực.

Đại hội XIII của Đảng (2021) tiếp tục khẳng định, mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với tư cách là “nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”(11). Tiếp tục khẳng định, đó là nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Một trong những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu được Đại hội XIII xác định là cần tập trung hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất, kinh doanh. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị; phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; ưu tiên nguồn lực phát triển hạ tầng nông thôn miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo; gắn kết hài hòa, hiệu quả thị trường trong nước và quốc tế; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Như vậy, nhận thức của Đảng ta về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành, hoàn thiện và phát triển không ngừng qua 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.

Một số đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam “là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ”(12), do đó vừa mang đặc điểm chung, phù hợp với giá trị phổ quát của kinh tế thị trường, vừa có tính đặc thù:

Thứ nhất, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là mô hình tự thân mang tính tất yếu khách quan, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Quá trình xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là sự vận động có chủ đích và định hướng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thứ hai, đó là nền kinh tế vì con người, lấy con người là trung tâm của sự phát triển, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam được thể hiện ở các điểm sau: 1- Trong mục tiêu phát triển: Thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, đạt tới một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; 2- Trong phương thức phát triển: Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực quan trọng của sự phát triển; 3- Trong phân phối thu nhập: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường… giải quyết tốt vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người, hoàn thiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội: 4- Trong quản lý: Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân; bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Thứ ba, là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, phù hợp với giá trị phổ quát về kinh tế thị trường. Tiến trình hội nhập quốc tế theo chiều rộng và chiều sâu đã đưa nền kinh tế Việt Nam trở thành một bộ phận hữu cơ, không thể tách biệt của nền kinh tế thị trường toàn cầu, trở thành một chủ thể trong sân chơi toàn cầu và tuân thủ luật chơi toàn cầu.

Thứ tư, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, giữa Nhà nước, thị trường và xã hội có mối quan hệ chặt chẽ, bổ khuyết nhau trong vận hành nền kinh tế. Giải quyết hợp lý mối quan hệ đó là điều kiện quan trọng bảo đảm hiệu quả kinh tế, tiến bộ, công bằng xã hội và môi trường bền vững. Nhà nước đóng vai trò như một thực thể điều tiết vĩ mô, phục vụ và quản lý phát triển nhằm thúc đẩy phát triển cũng như khắc phục “thất bại của thị trường”, đặc biệt là thất bại trong việc theo đuổi mục tiêu phát triển bền vững, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội.

Vai trò Nhà nước tập trung vào “xây dựng và hoàn thiện thể chế, bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh doanh, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế; tạo môi trường thuận lợi, công khai, minh bạch cho doanh nghiệp, tổ chức xã hội và thị trường hoạt động; điều tiết, định hướng, thúc đẩy kinh tế phát triển, gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, đời sống nhân dân, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, tiêu chuẩn, định mức và lực lượng kinh tế nhà nước phù hợp với yêu cầu và quy luật của kinh tế thị trường”(13). Vai trò quyết định của thị trường được thể hiện trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân bổ hiệu quả nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, thanh lọc doanh nghiệp yếu kém. Vai trò của tổ chức xã hội tập trung vào tạo dựng, phát triển sự liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết vấn đề phát sinh giữa thành viên; đại diện và bảo vệ lợi ích của thành viên trong quan hệ với chủ thể, đối tác khác; cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho thành viên; phản ánh nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân với Nhà nước và tham gia phản biện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước, giám sát cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức trong việc thực thi pháp luật.

Trong suốt gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã mang lại kết quả đáng khích lệ. Từ một quốc gia lạc hậu, thiếu đói thường xuyên, chúng ta đã vươn lên thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, trở thành nước đang phát triển, có mức thu nhập trung bình. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Tuy nhiên, vẫn còn không ít hạn chế cần khắc phục cả trong công tác thể chế hóa cũng như trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhất là do năng lực nghiên cứu, định hướng, tầm nhìn chiến lược còn hạn chế; công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn diễn biến nhanh chóng, phức tạp; nhận thức một số vấn đề về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn chậm, chưa sâu sắc, thống nhất; tư duy trong xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế phù hợp với yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư chậm được đổi mới, sức ì còn lớn. Một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên suy thoái đạo đức, lối sống và vi phạm đạo đức công vụ...

Định hướng, giải pháp phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong bối cảnh mới

Bối cảnh quốc tế thời gian tới dự báo tiếp tục biến động phức tạp, tạo ra cả cơ hội cũng như khó khăn, thách thức. Sự hình thành thế giới đa cực, đa trung tâm với sự trỗi dậy mạnh mẽ của một số nền kinh tế; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xu hướng phân mảnh địa - chính trị, địa - kinh tế, dịch chuyển thương mại, đầu tư toàn cầu... đang đặt ra yêu cầu đối với đất nước phải tăng cường khả năng tự chủ chiến lược, thực hiện tốt, hiệu quả đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, phát huy ngoại giao kinh tế để hạn chế rủi ro, đồng thời nắm bắt tốt cơ hội đến từ dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu. Thay đổi trong toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; sự phát triển của khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; vấn đề toàn cầu, an ninh phi truyền thống… sẽ mang đến cả nhân tố thuận lợi và khó khăn cho phát triển nhanh và bền vững của đất nước ta trong thời gian tới.

Ở trong nước, sau 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, thế và lực của đất nước ngày càng lớn mạnh; môi trường đầu tư, kinh doanh và năng lực cạnh tranh quốc gia được cải thiện; lực lượng sản xuất phát triển; chính trị, xã hội ổn định, vị thế quốc gia được nâng lên, kinh tế duy trì tăng trưởng ở mức khá, uy tín quốc tế của Việt Nam ngày càng được nâng lên, tạo tiền đề quan trọng cho sự phát triển của đất nước trong giai đoạn tiếp theo. Tuy nhiên, nền kinh tế tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, tạo sức ép rất lớn trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là khó khăn, yếu kém nội tại của nền kinh tế, như chất lượng kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ khoa học và công nghệ còn thấp... Để tiếp tục phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam thời gian tới, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp:

Một là, tiếp tục nâng cao sự thống nhất trong nhận thức về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở các cấp, các ngành, từ Trung ương đến địa phương, doanh nghiệp, người dân, nhất là nhận thức về sự sáng tạo và đột phá lý luận của Đảng ta về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần nhận thức sâu sắc đặc trưng phổ quát của kinh tế thị trường nói chung và tính đặc thù của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng để đề ra chủ trương, chính sách cũng như tổ chức thực hiện phù hợp.

Hai là, đẩy mạnh hoàn thiện đồng bộ thể chế, chính sách, tập trung vào tháo gỡ điểm nghẽn, vấn đề quan trọng đang cản trở sự phát triển kinh tế thị trường của nước ta; tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia, xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch. Hoàn thiện thể chế để thúc đẩy phát triển đồng bộ, hiệu quả, phát huy vai trò của khu vực kinh tế nhà nước, tư nhân, tập thể, khu vực đầu tư nước ngoài... Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh theo hướng công khai, minh bạch, ổn định; đẩy mạnh việc cắt giảm điều kiện và thủ tục đầu tư, sản xuất, kinh doanh, nhất là trong tiếp cận và phát huy nguồn lực, cơ hội kinh doanh, thị trường. Xây dựng thể chế thúc đẩy quá trình hợp tác, liên kết sản xuất, kinh doanh giữa các khu vực kinh tế, tạo lập chuỗi sản xuất, kinh doanh, chuỗi giá trị bền vững; tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Sản xuất linh kiện điện tử tại Công ty TNHH Bumjim Electronics Vina (100% vốn Hàn Quốc) tại các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh _Ảnh: TTXVN

Ba là, tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường nhằm giải phóng và khơi thông nguồn lực phát triển; nhất quán thực hiện giá thị trường, phân biệt rõ phúc lợi, ưu đãi và hiệu quả sản xuất, kinh doanh; đẩy mạnh phát triển thị trường các yếu tố sản xuất để thị trường đóng vai trò quyết định trong huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực; phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ theo phương thức tổ chức giao dịch văn minh, hiện đại, thương mại điện tử; phát triển thị trường khoa học và công nghệ, phát triển đồng bộ thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm…trên nền tảng công nghệ số với kết cấu hạ tầng công nghệ và phương thức giao dịch hiện đại. Phát triển và quản lý chặt chẽ thị trường bất động sản; thị trường sử dụng đất. Phát triển thị trường lao động, cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội. Phát huy vai trò của tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp tham gia hình thành và điều tiết quan hệ kinh tế thị trường. Xử lý tốt bất cập của cơ chế thị trường, bảo đảm phúc lợi và an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường sinh thái.

Bốn là, xây dựng thể chế để bảo đảm năng lực độc lập, tự chủ của nền kinh tế, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Chủ động hình thành thể chế, chính sách để khuyến khích đa dạng hóa thị trường xuất, nhập khẩu; chủ động lựa chọn, nâng cao chất lượng thu hút và quản lý nguồn vốn đầu tư nước ngoài để đáp ứng tốt nhất yêu cầu phát triển đất nước; quản lý chặt chẽ, sử dụng hiệu quả nguồn vốn vay từ nước ngoài, từ tổ chức quốc tế; sử dụng hợp lý hàng rào kĩ thuật phù hợp để bảo vệ thị trường trong nước; tham gia tích cực, có trách nhiệm vào xây dựng thể chế kinh tế, thương mại, đầu tư khu vực và toàn cầu; chuẩn bị phương án ngăn ngừa, giảm thiểu tác động tiêu cực từ bên ngoài với kinh tế đất nước./...

----------------

(1) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 25
(2), (3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 11, 56
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 21
(5) Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018, tập 51, tr. 135
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 97
(7) Bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại
(8) Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t. 67, tr. 118
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 34
(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 102
(11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 128
(12) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 26
(13) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t. I, tr. 130 - 131

Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/1086902/su-phat-trien-nhan-thuc-cua-dang-cong-san-viet-nam-ve-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-qua-gan-40-nam-tien-hanh-cong-cuoc-doi-moi.aspx


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chuyên mục

Cát Bà - bản giao hưởng của mùa hè
Đi tìm Tây Bắc cho riêng mình
Ngắm “cổng nhà trời” Pù Luông - Thanh Hoá
Lễ thượng cờ rủ Quốc tang nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương dưới mưa

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm