Từ năm 2023 đến 2024, doanh thu xuất khẩu hưởng ưu đãi thuế quan theo FTA tăng trung bình 12,7% hàng năm.
Mặc dù Việt Nam đã ký kết 18 FTA, mở cửa thị trường toàn cầu, nhưng tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan chỉ ở mức 30-40%. Những rào cản nào đang cản trở doanh nghiệp, và đâu là lối thoát để biến thách thức thành cơ hội?
Chưa tận dụng hiệu quả
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam đã khẳng định vị thế qua việc ký kết và thực thi 18 Hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó 17 hiệp định đã có hiệu lực, mở ra cánh cửa tiếp cận hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ, chiếm gần 90% GDP toàn cầu. Những FTA quan trọng như CPTPP, EVFTA, UKVFTA và RCEP không chỉ thúc đẩy xuất khẩu mà còn thu hút đầu tư, nâng cao vị thế hàng hóa Việt Nam trên trường quốc tế.
Doanh nghiệp vẫn chưa tận dụng hết lợi thế từ những ưu đãi thuế quan này, tỷ lệ tận dụng chỉ ở mức trung bình 30-40%.
Theo Bộ Công Thương, năm 2024, tổng kim ngạch thương mại đạt 786,29 tỷ USD, với xuất khẩu tăng 14,3% so với cùng kỳ năm 2023, mang lại thặng dư thương mại 24,8 tỷ USD. Đáng chú ý, khu vực FDI đóng góp tới 71,8% tổng kim ngạch xuất khẩu, đặc biệt ở các ngành công nghệ cao như máy vi tính, sản phẩm điện tử và điện thoại. Từ năm 2023 đến 2024, doanh thu xuất khẩu hưởng ưu đãi thuế quan theo FTA tăng trung bình 12,7% hàng năm, chứng tỏ tiềm năng to lớn mà các hiệp định này mang lại.
Tuy nhiên, thực tế doanh nghiệp vẫn chưa tận dụng hết lợi thế từ những ưu đãi thuế quan này. Bà Bùi Hoàng Yến, Đại diện Văn phòng Cục Xúc tiến Thương mại phía Nam (Bộ Công Thương), chỉ ra rằng tỷ lệ tận dụng chỉ ở mức trung bình 30-40%. Phân tích số liệu cấp Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) năm 2024 cho thấy sự chênh lệch rõ rệt: cao ở thị trường truyền thống như Ấn Độ (65,12% với mẫu AI), Trung Quốc (41,84% với mẫu E) và ASEAN (40,11% với mẫu D), nhưng thấp ở các FTA thế hệ mới như RCEP (1,83%) và CPTPP (8,84%).
Lý do chính nằm ở những rào cản nội tại và ngoại tại. Cụ thể, doanh nghiệp Việt phụ thuộc nặng nề vào thị trường lớn như Mỹ và Trung Quốc, nơi tỷ lệ nội địa hóa thấp khiến sản xuất đòi hỏi nhiều nguyên phụ liệu nhập khẩu, dẫn đến khó đáp ứng quy tắc xuất xứ nghiêm ngặt. Bà Hồ Thị Quyên, Phó Giám đốc Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP Hồ Chí Minh (ITPC), nhấn mạnh thách thức từ yêu cầu ngày càng cao về tiêu chuẩn chất lượng, trách nhiệm xã hội và phát triển bền vững, cộng với áp lực cạnh tranh gay gắt từ doanh nghiệp nước ngoài ngay tại nội địa.
Hơn nữa, rủi ro đứt gãy chuỗi cung ứng và áp lực tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế về môi trường, lao động, sở hữu trí tuệ đang trở thành gánh nặng. Theo Bộ Công Thương, xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2024 ghi nhận 57 trường hợp cảnh báo về tồn dư chất cấm, tăng 80% so với cùng kỳ 2023, tập trung vào năm mặt hàng như thanh long, sầu riêng, đậu bắp, ớt và gia vị thảo dược – những sản phẩm thường xuyên vi phạm mức dư lượng tối đa cho phép (MRL).
Bà Đinh Thị Hương Giang, Giám đốc Tư vấn Công ty Kiểm toán và Tư vấn Grant Thornton Việt Nam, bổ sung rằng doanh nghiệp còn thiếu minh bạch báo cáo, hệ thống kế toán chưa số hóa, thiếu KPI chuẩn quốc tế và yếu trong quản trị rủi ro tài chính, khiến việc thẩm định nhà cung cấp (VDD) trở nên khó khăn khi tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. Những bất cập này không chỉ làm giảm lợi thế cạnh tranh mà còn khiến doanh nghiệp bỏ lỡ cơ hội từ các FTA, dẫn đến tình trạng "cửa mở nhưng chưa bước qua".
Cần giải pháp đồng bộ
Để khắc phục tình trạng trên, cần một chiến lược đồng bộ từ cả nhà nước và doanh nghiệp, biến thách thức thành động lực phát triển. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 93/NQ-CP và Chỉ thị 38/CT-TTg nhằm tăng cường khai thác FTA, đồng thời Cục Xúc tiến Thương mại tích cực tổ chức tập huấn, tuyên truyền và kết nối giao thương. Bà Bùi Hoàng Yến đề xuất doanh nghiệp chủ động đầu tư nâng cao chất lượng môi trường, điều kiện lao động để tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời phát triển công nghiệp hỗ trợ và liên kết nội khối nhằm đáp ứng quy tắc xuất xứ. Hợp tác chặt chẽ giữa doanh nghiệp vừa và nhỏ với khối FDI sẽ tạo sức mạnh cộng hưởng trong chuỗi cung ứng toàn cầu, trong khi chính sách hỗ trợ tài chính, tín dụng từ nhà nước là đòn bẩy quan trọng cho doanh nghiệp nhỏ.
Doanh nghiệp nên điều chỉnh bao bì, sử dụng C/O, chuyển sang nguyên liệu tái chế... để tận dụng các ưu đãi từ FTA.
Về quy tắc xuất xứ phức tạp, đặc biệt trong RCEP, bà Nguyễn Thị Trọng Nghĩa, Phó Trưởng phòng Quản lý Xuất nhập khẩu khu vực TP Hồ Chí Minh (Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương), giải thích chi tiết về cơ chế "Khác biệt thuế" (tariff differentials), nơi mức thuế ưu đãi phụ thuộc vào nước xuất xứ cụ thể.
Đơn cử, Nhật Bản áp thuế 0% ngay lập tức cho dệt may từ ASEAN, Australia và New Zealand, nhưng giảm dần trong 16 năm cho hàng từ Trung Quốc và Hàn Quốc. Doanh nghiệp cần tính toán chính xác giá trị nội khối, với ngưỡng 20% để xác định xuất xứ, hoặc áp dụng quy tắc dự phòng nếu dưới mức đó. Bà Nghĩa nhấn mạnh việc này giúp tối ưu hóa ưu đãi, đòi hỏi doanh nghiệp Việt phải nâng cao năng lực tính toán giá thành.
Từ góc nhìn thực tiễn, ông Vũ Hoàng Nam, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Sienna Việt Nam, chia sẻ lợi ích từ EVFTA qua sản phẩm bút kiểm tra sức căng bề mặt màng bao bì nhựa (HS 96082000), giảm thuế từ 25% (WTO) xuống 0% từ 2023, nhờ chuẩn bị chứng từ đầy đủ như hóa đơn với số REX và mã B25 trên tờ khai.
Bà Trần Thị Ngọc Lan, Phó Trưởng phòng Kế hoạch Thị trường Công ty Cổ phần May Chiến Thắng, khẳng định thành công khi đạt 90% doanh thu xuất khẩu EU nhờ nguồn cung nội địa, và xuất khẩu sang Hàn Quốc, Hà Lan với miễn thuế nhờ chuẩn GMP và kiểm định SGS. Bà khuyên doanh nghiệp điều chỉnh bao bì, sử dụng C/O, chuyển sang nguyên liệu tái chế, áp dụng blockchain truy xuất nguồn gốc, tham gia hội chợ quốc tế và cập nhật pháp luật thị trường.
Việc doanh nghiệp Việt chưa tận dụng tối đa ưu đãi FTA xuất phát từ rào cản nội tại, nhưng với giải pháp đồng bộ, từ nâng cao năng lực đến hỗ trợ nhà nước, Việt Nam hoàn toàn có thể chuyển mình, biến hội nhập thành động lực tăng trưởng bền vững.
Tỷ lệ tận dụng FTA chỉ ở mức trung bình
- Thực trạng: Doanh nghiệp Việt Nam chỉ tận dụng 30-40% ưu đãi thuế quan từ 18 FTA, thấp hơn nhiều so với tiềm năng. Tỷ lệ cao ở thị trường truyền thống như Ấn Độ (65,12%), nhưng chỉ 1,83% (RCEP) và 8,84% (CPTPP) ở các FTA thế hệ mới (Nguồn: Bộ Công Thương, 2024).
- Rào cản chính: Phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu, tỷ lệ nội địa hóa thấp, áp lực tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế và thiếu minh bạch trong quản trị.
- Giải pháp then chốt: Đầu tư nâng cao chất lượng, liên kết nội khối, áp dụng công nghệ truy xuất nguồn gốc và tận dụng hỗ trợ tài chính từ nhà nước để đáp ứng quy tắc xuất xứ.
- Nguồn: Bộ Công thương
Nguồn: https://vtv.vn/tan-dung-cac-uu-dai-tu-fta-de-tang-xuat-khau-10025092515071681.htm
Bình luận (0)