Trống vừa là nhạc cụ, vừa là tín hiệu thông báo những hoạt động lễ hội, sinh hoạt trong buôn làng. Trong những ngôi nhà làng truyền thống luôn có những chiếc trống lớn nhỏ đặt trên giá, khi cần thì đồng bào mang ra dùng.
Dân tộc Cơ Tu có 3 loại trống khác nhau, trống lớn gọi là k’thu, cha gơr bơh, trống trung là pâr lư, trống nhỏ char gơr katươi. Mặt trống làm từ da sơn dương, da mang vì các loại da này rất mỏng, tiếng trống mới vang; da trâu, da bò ít khi dùng vì quá dày, trống không kêu. Dây mây già, dài đến 20 - 30 m được người ta chọn ra đoạn tốt nhất để làm dây kéo căng mặt trống. Tang trống làm bằng những loại gỗ tốt. Trống lớn khi đánh âm vang vọng, trống nhỏ làm nhịp điệu, phụ họa. Trống thường dùng để đánh hòa âm với chiêng, giữ nhịp cho các điệu múa tập thể.
![]() |
| Nhịp điệu trống rộn vui trước sân nhà làng truyền thống Cơ Tu. |
Đồng bào Cơ Tu không dùng từ “cồng chiêng” như đồng bào Tây Nguyên mà dùng từ “trống chiêng” để nói về loại hình diễn tấu đặc sắc này. Sau khi nhịp trống chiêng ngân lên “từng…từng”, “tâng tâng”, “tư..tư”, “tiing toàng…” thì bao giờ người con gái cũng bước ra trước biểu diễn các động tác múa rồi mới đến đàn ông, con trai.
Đi trước là nữ, đi sau là nam, nếu múa đông người thì vòng trong là nữ, vòng ngoài là nam, thể hiện sự che chở của đàn ông với phụ nữ. Một đặc trưng cơ bản của múa Cơ Tu là có sự kết hợp giữa múa nam và múa nữ trong một đội hình múa.
Bên cạnh nhóm phụ nữ múa da’dă, những người đàn ông tham gia nhảy hội với điệu tân’tung, tạo nên một đội hình múa hoàn chỉnh mà người Cơ Tu gọi là Tân’tung da’dă (đã được đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia). Đi đầu đội hình múa còn có các già làng, nghệ nhân thổi tù và, khèn bè, một số người đánh chiêng, gõ trống. Mọi người đều múa trong một vòng tròn và bước đi ngược chiều kim đồng hồ với nhịp điệu sôi động, rộn rã của tiếng trống, chiêng, làm sống dậy núi rừng bao la.
Tân’tung là bắt nguồn từ âm thanh của trống, là một trong hai nhạc cụ chủ đạo cho điệu múa truyền thống Cơ Tu. Trống vừa là nhạc cụ, vừa là vũ khí gắn với đàn ông và các cuộc chiến tranh bảo vệ buôn làng thời xa xưa. Tân’tung là điệu múa dành cho đàn ông, chân bước ngang người (không bước về phía trước như đi bình thường) và luôn xoay người theo điệu của hai tay vẫy lên vẫy xuống…
Điệu múa của nam diễn tả, tái hiện cảnh đi săn thú, là điệu múa mừng chiến thắng thể hiện tinh thần thượng võ của người Cơ Tu, hòa hợp với điệu múa cầu mùa của người phụ nữ. Khi tham gia nhảy hội, ngoài tấm áo choàng từ lưng xuống vai, từ vai xuống bụng và chiếc khố chữ T, người múa còn có đạo cụ là chiếc gùi (ta leo), những vũ khí của một chiến binh thời cổ như khiên, kiếm, cung nỏ hoặc giáo.
Lúc múa, khi thì nhảy tiến lên lao thẳng giáo mác về phía trước, khi thì nhảy lùi, thu gọn khom người về phía sau đỡ khiên che chắn. Khi lại nhảy tót ngang qua lại để quan sát đối tượng, thú vật săn bắn. Động tác múa Tân'tung của đàn ông với cường độ và tiết tấu sinh động thể hiện sức mạnh cường tráng, dũng mãnh, oai hùng.
![]() |
| Biểu diễn trống đôi của dân tộc Chăm Hroi. |
Dân tộc Cor nổi tiếng với điệu đấu chiêng, trong đó tiếng trống có vai trò rất quan trọng. Nhạc cụ dành cho tiết mục đấu chiêng gồm 2 chiêng (chếch) và 1 chiếc trống (a-gơl). Tham gia đấu chiêng chỉ gồm 3 người: một người dùng chiêng vợ, một người dùng chiêng chồng để đấu với nhau. Người thứ ba đánh trống, đóng vai trò như trọng tài giữ nhịp, khích lệ cho hai bên thi đấu. Người Cor xem đấu chiêng như một nghệ thuật đặc sắc, chỉ dành cho thanh niên, trai tráng có đủ sức vóc và có tài diễn tấu. Bởi vì lối đánh chiêng như đấu võ, thể hiện sức mạnh, sự dẻo dai, nhanh trí của người tham gia thi đấu. Với tiết mục đấu chiêng đôi, âm sắc nhạc điệu càng thêm độc đáo. Người diễn xướng vừa chơi nhạc cụ giỏi vừa có sức khỏe tốt để diễn tả những động tác mạnh mẽ giống như võ sĩ. Người diễn thể hiện tinh thần thượng võ vừa mang dáng dấp của nghệ sĩ, làm cho người xem thán phục, cổ vũ để họ trổ tài diễn xuất hết mình.
Trong các lễ hội truyền thống như lễ ăn trâu, lễ cưới, lễ mừng sức khỏe..., các dân tộc Chăm - Hroi (xã Vân Canh, tỉnh Gia Lai), dân tộc Chăm - Hroi và Bhanar (xã Đồng Xuân, xã Xuân Hòa, tỉnh Đắk Lắk) thường sử dụng 3 bộ cồng 3 (cồng 3 chiếc), 3 bộ trống đôi và 3 giàn chiêng 5. Khi biểu diễn, các nhạc cụ này được sắp xếp như sau: Giàn cồng 3 đi trước, tiếp đến là trống đôi và sau cùng là chiêng 5. Khi diễn tấu, âm thanh của cồng - trống - chiêng xen nhau nổi lên một cách nhịp nhàng, lúc sôi động, trầm bổng, lúc lắng dịu man mác. Linh hồn của bản hòa âm hùng tráng này chính là điệu múa trống đôi (K’toang). Nghệ nhân biểu diễn trống đôi không chỉ đánh mà còn nhảy múa với những động tác đạt trình độ kỹ thuật cao, rất điêu luyện, chính xác. Người đấu nhìn nhau gương mặt tươi vui, thân thể uyển chuyển, bước chân rắn chắc, linh hoạt. Trống đôi là nghệ thuật diễn tấu đầy sức sống, hấp dẫn, toát lên cái hồn và hơi thở của dân tộc mình.
Có thể nói, trống là nhạc cụ gắn liền với đời sống tâm linh, văn hóa của đồng bào các dân tộc vùng Trường Sơn - Tây Nguyên, là thành phần không thể thiếu trong các di sản văn hóa phi vật thể của đồng bào như âm nhạc, hát múa, lễ hội truyền thống.
Nguồn: https://baodaklak.vn/van-hoa-du-lich-van-hoc-nghe-thuat/202510/trong-chieng-am-vang-ngay-hoi-90c1cf0/








Bình luận (0)