Cơ hội lớn nhất đối với Việt Nam hiện nay nằm ở sự giao thoa giữa hai xu thế: Hội nhập quốc tế sâu rộng và sự dịch chuyển của các cấu trúc kinh tế, an ninh toàn cầu. Sự phân tán của chuỗi cung ứng thế giới mở ra cơ hội cho Việt Nam trở thành điểm đến của dòng vốn đầu tư, công nghệ và thương mại quốc tế. Việc tham gia ngày càng sâu vào các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), hay các cơ chế hợp tác khu vực và quốc tế như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Liên hợp quốc đã tạo nền tảng pháp lý và không gian phát triển rộng lớn cho nền kinh tế và cho quá trình hội nhập của đất nước.

Cách mạng công nghiệp 4.0 và xu hướng chuyển đổi số toàn cầu cũng mở ra khả năng rút ngắn khoảng cách phát triển, cho phép Việt Nam tận dụng công nghệ, dữ liệu, trí tuệ nhân tạo để nâng cao năng suất, đổi mới mô hình tăng trưởng và từng bước khẳng định vị thế trong những lĩnh vực có giá trị gia tăng cao.

Trên phương diện chính trị, Việt Nam có cơ hội củng cố và nâng cao vị thế quốc gia trong khu vực và trên thế giới thông qua đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển. Việc Việt Nam đảm nhiệm vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN, hay tổ chức thành công các hội nghị quốc tế lớn cho thấy uy tín và năng lực điều phối của một quốc gia tầm trung có trách nhiệm, biết cân bằng lợi ích và đóng góp tích cực cho hòa bình, ổn định khu vực.

Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu hướng dẫn người dân vùng biên giới ứng dụng công nghệ số để tạo cơ hội phát triển kinh tế - xã hội. Ảnh: HIẾU ĐỨC

Trên phương diện quốc phòng, an ninh (QPAN), tư duy “giữ nước từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy” đã giúp Việt Nam chủ động xây dựng tiềm lực, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững chắc, đồng thời tham gia vào việc định hình môi trường an ninh khu vực, góp phần duy trì hòa bình và ngăn ngừa xung đột. Đây là nền tảng quan trọng để nâng cao vị thế chiến lược của Việt Nam trong cấu trúc an ninh châu Á-Thái Bình Dương đang định hình lại.

Cơ hội lớn khác đến từ sức mạnh nội sinh của dân tộc-yếu tố cốt lõi của “tự chủ chiến lược”. Sau 4 thập kỷ đổi mới, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu quan trọng về kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học-công nghệ, nâng cao đời sống nhân dân, củng cố lòng tin chính trị-xã hội và uy tín quốc tế. Hệ thống chính trị ngày càng hoàn thiện, năng lực quản trị quốc gia từng bước được nâng cao, tạo điều kiện để Đảng, Nhà nước chủ động định hướng phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh toàn cầu hóa. Nguồn lực con người, đặc biệt là thế hệ trẻ năng động, sáng tạo, có tri thức và khát vọng vươn lên đang trở thành lợi thế chiến lược để Việt Nam chuyển đổi mô hình phát triển, hướng tới nền kinh tế tri thức, xanh và số.

Tuy nhiên, cùng với những cơ hội đó, Việt Nam đang đối diện nhiều thách thức mang tính cấu trúc, có thể ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình thực hiện “tự chủ chiến lược”. Trước hết là thách thức từ môi trường quốc tế ngày càng phức tạp và khó dự đoán. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn đặt các quốc gia khác trước sức ép phải lựa chọn, trong khi lợi ích đan xen khiến việc giữ thế cân bằng trở nên tinh tế và khó khăn hơn. Bất kỳ sự lệ thuộc quá mức nào, dù về công nghệ, thị trường, vốn hay an ninh đều có thể làm suy yếu quyền tự chủ của quốc gia. Trong bối cảnh đó, việc duy trì chính sách đối ngoại “độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa” trở thành bài kiểm tra lớn cho bản lĩnh chính trị và năng lực ứng xử chiến lược của Việt Nam.

Về kinh tế, thách thức lớn nhất nằm ở năng lực nội sinh còn hạn chế. Nền kinh tế Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào khu vực đầu tư nước ngoài, trong khi năng suất lao động, năng lực đổi mới sáng tạo, làm chủ công nghệ lõi và khả năng tự chủ trong các ngành công nghiệp nền tảng còn yếu. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước thấp, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước các cú sốc bên ngoài. Việc tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu nhưng ở vị trí thấp khiến Việt Nam có nguy cơ bị “kẹt” trong mô hình gia công, phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu và các tập đoàn đa quốc gia. Để thực hiện “tự chủ chiến lược” thực chất, Việt Nam phải từng bước vươn lên các nấc thang cao hơn trong chuỗi giá trị, phát triển năng lực công nghệ, công nghiệp quốc gia, giảm dần sự phụ thuộc vào bên ngoài.

Tổ hợp tên lửa Trường Sơn do công nghiệp quốc phòng Việt Nam chế tạo. Ảnh: TUẤN HUY

Trên phương diện chính trị-xã hội, yêu cầu “tự chủ chiến lược” đòi hỏi hệ thống chính trị phải thực sự tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả và thích ứng cao với biến động của thời đại. Sức ép đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền, cải cách thể chế và nâng cao năng lực quản trị nhà nước đang trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Nếu không đổi mới kịp thời, sự trì trệ về thể chế và bộ máy có thể làm giảm khả năng nắm bắt cơ hội, xử lý thách thức và làm chậm quá trình phát triển. Một thách thức khác là việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác với các quan điểm sai trái, thù địch trong điều kiện không gian mạng mở rộng, thông tin đa chiều và tác động của các giá trị ngoại lai phức tạp, đòi hỏi sự kiên định chính trị đi liền với phương pháp tiếp cận linh hoạt, hiện đại, thuyết phục.

Trong lĩnh vực QPAN, thách thức chủ yếu đến từ những yếu tố phi truyền thống như an ninh mạng, an ninh thông tin, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh môi trường, cùng với những nguy cơ xung đột cục bộ và cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn. Trong khi đó, yêu cầu “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa” đòi hỏi Việt Nam phải có năng lực dự báo chiến lược, chủ động tham gia định hình môi trường an ninh khu vực, kết hợp giữa đối ngoại quốc phòng và đối ngoại nhân dân, vừa bảo đảm thế chủ động chiến lược, vừa duy trì hòa bình, ổn định để phát triển.

Văn hóa và con người-lĩnh vực gắn trực tiếp với sức mạnh mềm quốc gia cũng đối mặt với nhiều thách thức. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng dễ dẫn đến nguy cơ phai nhạt bản sắc dân tộc, du nhập các giá trị phản văn hóa và sự suy giảm niềm tin xã hội nếu không có bản lĩnh văn hóa vững vàng. Thực hiện “tự chủ chiến lược” về văn hóa đòi hỏi phải xây dựng hệ giá trị Việt Nam thời kỳ mới, phát huy bản sắc dân tộc, kết hợp truyền thống và hiện đại, tạo sức lan tỏa của giá trị Việt Nam ra thế giới, nâng cao sức mạnh mềm và vị thế văn hóa quốc gia.

Từ những cơ hội và thách thức nêu trên có thể thấy, “tự chủ chiến lược” không phải là một trạng thái cố định, mà là quá trình phấn đấu liên tục, vừa củng cố nội lực vừa chủ động mở rộng ngoại lực. Điều cốt lõi là Việt Nam phải xác định đúng trụ cột của tự chủ: Nền chính trị vững chắc, nền kinh tế độc lập và tự cường, nền QPAN toàn diện, nền văn hóa giàu bản sắc và đường lối đối ngoại khôn khéo, linh hoạt. Mỗi yếu tố không tồn tại riêng rẽ mà bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau, tạo thành cấu trúc tự chủ tổng hợp. Độc lập về chính trị tạo nền tảng cho tự chủ kinh tế; tự chủ kinh tế cung cấp nguồn lực cho QPAN; tự chủ QPAN bảo vệ môi trường hòa bình để phát triển; tự chủ văn hóa-xã hội nuôi dưỡng bản lĩnh, niềm tin, sức mạnh tinh thần của dân tộc.

Thực hiện thành công “tự chủ chiến lược” đòi hỏi Việt Nam tiếp tục kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đồng thời đổi mới mạnh mẽ tư duy, thể chế và phương thức hành động. Đó là quá trình kết hợp giữa kiên định và sáng tạo, giữa giữ vững nguyên tắc và linh hoạt trong ứng xử, giữa nội lực dân tộc và sức mạnh của thời đại. Trong thế giới đầy biến động, “tự chủ chiến lược” không chỉ là phương thức để Việt Nam đứng vững mà còn là con đường để Việt Nam vươn lên, góp phần định hình một môi trường khu vực hòa bình, hợp tác, phát triển, nơi tiếng nói và giá trị Việt Nam ngày càng có trọng lượng và tầm ảnh hưởng sâu rộng hơn trên trường quốc tế. 

Nguồn: https://www.qdnd.vn/cuoc-thi-viet-vung-buoc-duoi-co-dang/tu-chu-chien-luoc-buoc-phat-trien-trong-ky-nguyen-vuon-minh-bai-4-tan-dung-co-hoi-dong-thoi-no-luc-vuot-moi-thach-thuc-1012632