Ông Trịnh Đình Năng, một “kỹ sư chân đất” chỉ học hết lớp 6, nhưng bằng đam mê, nghị lực tự học phi thường và một bộ óc không ngừng trăn trở với những vấn đề của cuộc sống đã làm nên kỳ tích với 5 bằng sáng chế độc quyền, biến những ý tưởng táo bạo thành sản phẩm phục vụ cộng đồng.

Lo đốt rác thải y tế , Sáng chế đạt 5 sao
Sáng chế gây tiếng vang lớn đầu tiên và cũng là sản phẩm đưa tên tuổi ông Trịnh Đình Năng vượt ra khỏi phạm vi tỉnh lẻ chính là “Lò đốt và hệ thống xử lý rác thải y tế nguy hại”. Công trình khoa học này được Nhà nước cấp Bằng độc quyền sáng chế năm 2012, do Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp.
Đây là chiếc lò đốt đầu tiên trên thế giới có khả năng xử lý được dioxin, chất độc cực kỳ nguy hại và từng được cho là “không thể phân huỷ bằng phương pháp nhiệt học thông thường”. So với các sản phẩm nhập khẩu cùng loại, hệ thống của ông Năng có thể tiết kiệm đến 80% lượng nhiên liệu tiêu thụ.
Khác với công nghệ đốt truyền thống sử dụng nhiên liệu phun dầu, sáng chế của ông ứng dụng công nghệ đốt liên hoàn, sử dụng phương pháp phun lửa trực tiếp vào vật đốt, nâng hiệu quả đốt cháy lên đáng kể. Ở giai đoạn xử lý khí thải, lò được tích hợp công nghệ nano khép kín, giúp phân huỷ hoàn toàn các thành phần khói, bụi và mùi hôi độc hại. Nhiệt độ tại tâm lò có thể đạt tới 1.800 độ C – một thông số vượt xa nhiều thiết bị xử lý rác thải công nghiệp hiện nay – giúp tăng tốc độ phân huỷ và tiêu huỷ hoàn toàn các hợp chất độc.

Với hiệu quả thực tiễn cao và khả năng áp dụng rộng rãi trong lĩnh vực xử lý chất thải y tế nguy hại, hệ thống lò đốt của ông Trịnh Đình Năng đã đoạt giải Nhất tại Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật tỉnh Bắc Kạn năm 2012. Cùng năm, sản phẩm cũng được Bộ Công Thương công nhận là sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu khu vực phía Bắc.
Dây chuyền nano curcumin, nâng tầm dược liệu Việt
Nếu lò đốt rác khẳng định tài năng của ông Năng trong lĩnh vực cơ-nhiệt và môi trường, thì các sáng chế sau này cho thấy sức sáng tạo không giới hạn của ông khi lấn sân sang cả lĩnh vực công nghệ sinh học và vật liệu mới. Nhận thấy củ nghệ vàng Bắc Kạn có chất lượng tốt nhưng chủ yếu được bán thô với giá trị thấp, ông trăn trở tìm cách nâng tầm nông sản quê hương.

“Năm 2012, 1 kg tinh chất curcumin chiết xuất từ nghệ vàng có giá tới 10.000 USD tại sàn dược liệu London, trong khi tại Việt Nam, củ nghệ tươi chỉ vài nghìn đồng/kg, khiến người trồng nghệ vẫn nghèo”, ông chia sẻ.
Với quyết tâm thay đổi điều đó, ông bắt tay vào nghiên cứu. Được Bộ Khoa học và Công nghệ tạo điều kiện tiếp cận tài liệu, ông dành toàn bộ thời gian ăn ngủ tại nơi làm việc, thử nghiệm nhiều phương án chiết xuất, trong đó có cả công nghệ của nước ngoài. Tuy nhiên, tính toán cho thấy nếu áp dụng công nghệ đó tại Việt Nam thì sẽ lỗ. Không nản chí, ông tự nghiên cứu, cải tiến và thiết kế dây chuyền công nghệ của riêng mình.
Sau 5 tháng miệt mài từ cuối năm 2014 đến đầu 2015, ông Năng đã chế tạo thành công dây chuyền sản xuất nano curcumin từ nghệ vàng với quy mô công nghiệp. Đáng chú ý, công nghệ này có thể tách chiết và chuyển hóa tới 95% thành phần dược liệu có lợi trong củ nghệ thành dạng nano – tinh khiết, dễ hấp thụ và hòa tan hoàn toàn trong nước.
Sản phẩm đã được Cục An toàn thực phẩm – Bộ Y tế xác nhận công bố phù hợp quy định vào năm 2016. Đồng thời, sản phẩm này cũng được công nhận là Sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp tỉnh (2016) và Sản phẩm nông nghiệp tiêu biểu cấp tỉnh (2015) do Hội Nông dân Việt Nam trao tặng.
Không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế, công nghệ của ông Năng còn góp phần tạo sinh kế cho người dân địa phương. Nhà máy của ông mỗi tháng thu mua hàng nghìn tấn nghệ tại Bắc Kạn, Lai Châu, Sơn La… tạo việc làm cho hàng nghìn người, nâng cao giá trị cây nghệ và thúc đẩy phát triển kinh tế vùng.
Không dừng lại ở nghệ, dây chuyền công nghệ cao này còn được ứng dụng trong việc chiết xuất các dược liệu khác như gừng, cà gai leo, gấc… để sản xuất thực phẩm chức năng chất lượng cao.
Một điểm khác biệt quan trọng trong curcumin do ông Năng chiết xuất là đã loại bỏ phần dầu nghệ – hợp chất có thể gây kích ứng. Thành phẩm vì vậy không còn mùi nghệ, dễ sử dụng và an toàn hơn cho sức khỏe. Hiện sản phẩm do Công ty CP Tập đoàn Trịnh Năng Healthcare độc quyền phân phối.
Chế tạo “vua của các loại vật liệu” từ 4.000 lần thất bại
Chưa dừng lại ở đó, ông Năng tiếp tục chinh phục một đỉnh cao gần như không tưởng: chế tạo Endo-Fullerene (C60-C70). Đây là một loại vật liệu siêu bán dẫn, được mệnh danh là “vua của các loại vật liệu” với tiềm năng ứng dụng trong pin lượng tử, chip máy tính thế hệ mới và y học nano. Trên thế giới, chỉ có vài phòng thí nghiệm tối tân mới sản xuất được nó với chi phí cực kỳ đắt đỏ. Vậy mà, ông Năng, với xưởng cơ khí đơn sơ, đã quyết tâm thực hiện.

Đó là một hành trình gian khổ kéo dài 5 năm với hơn 4.000 lần thử nghiệm thất bại. Ông phải tự nghiên cứu tài liệu nước ngoài, tự chế tạo lò plasma, lò hồ quang để tạo ra môi trường nhiệt độ và áp suất khắc nghiệt. Khi mẻ Endo-Fullerene đầu tiên thành công, ông đã bật khóc vì sung sướng.
“Làm được một việc khó như thế, tôi mừng đến rơi nước mắt. Dù không học đại học, tôi không bao giờ cho phép mình bỏ cuộc”, ông chia sẻ.
Năm 2018 hệ thống sản xuất hỗn hợp C60-C70 fullerene của NSC Trịnh Đình Năng đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp bằng bảo hộ độc quyền sáng chế (số 20192, ngày cấp 25/12/2018).
Công trình này cũng đạt giải 3 Cuộc thi Sáng chế năm 2018 do Bộ Khoa học và Công nghệ (Cục Sở hữu trí tuệ là Cơ quan thường trực) chủ trì, phối hợp với Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), Tổng cục Sở hữu trí tuệ Hàn Quốc (KIPO) tổ chức.
Hỗn hợp Endo Fullerene pha tạp kim loại hiện nay trên thế giới mới chỉ được sản xuất ở quy mô rất nhỏ trong phòng thí nghiệm, với giá thành cực kỳ đắt đỏ, có thể lên tới hàng trăm triệu USD cho mỗi gram. Loại hạt này có tiềm năng ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực công nghệ cao như bán dẫn, hàng không vũ trụ, quốc phòng, pin tích năng lượng lượng tử, siêu chip, máy tính lượng tử, đồng hồ lượng tử, robot, pin mặt trời, thiết bị định vị GPS, vật liệu siêu cứng… và cả trong y học. Đây được xem là "vật liệu của tương lai".
Hành trình tự học, từ người thợ “chân đất” đến nhà sáng chế
Điều đặc biệt, tất cả những sáng chế của ông Trịnh Đình Năng, đều không xuất phát từ trường lớp, mà từ thực tiễn của một “kỹ sư chân đất”.
Ông Trịnh Đình Năng sinh năm 1957 tại Ninh Giang, Hải Dương, bố là một bác sĩ được đào tạo từ thời Pháp thuộc. Sau đó, bố mẹ được phân công lên công tác tại Bệnh viện Bắc Kạn. Công tác ở Bắc Kạn được một thời gian ngắn thì bố lại nhận nhiệm vụ về Hải Phòng, mẹ cùng 2 con ở lại đất Bắc Kạn. Học hết lớp 6, ông đành phải tạm dừng việc học do gia đình quá khó khăn.
Ông chia sẻ, ở tuổi 13, ông đã một mình lo việc dựng ngôi nhà ba gian cho ba mẹ con. Dù là một đứa trẻ, ông đã biết tính toán kết cấu, sử dụng đòn bẩy vận chuyển gỗ, hoàn thiện ngôi nhà sau hơn một năm lao động bền bỉ.
Sau này, ông làm công nhân ở nhà máy gang thép Thái Nguyên, rồi học bổ túc nghề cơ khí, tiếp tục học nghề mộc và làm tại Xí nghiệp gỗ Bắc Kạn. Niềm yêu thích máy móc dẫn ông đến với sáng chế, dù ban đầu các sản phẩm chưa có cơ hội ứng dụng.
Chuyển sang nghề may mặc với vợ một thời gian, ông lại quay về với niềm đam mê cơ khí. Tự chế máy ép biên dùng trong sửa chữa xe máy, sản phẩm của ông có giá chỉ bằng một nửa so với thị trường, mang lại thu nhập tốt. Từ đó, ông dấn thân vào chế tạo máy móc phục vụ đời sống và nghiên cứu tách quặng lấy vàng, bạc bằng công nghệ mới.
Có thời điểm ông kiếm được rất nhiều tiền, nhưng cũng không ít lần đứng bên bờ phá sản. Dù bị cho là “gàn”, ông vẫn kiên định với lý tưởng: thấy ý tưởng lóe lên là bắt tay học hỏi, tự làm, làm hỏng lại làm lại đến khi thành công.
“Tôi không học hành bài bản, mọi thứ đều tự tìm hiểu, tự mày mò. Rất nhiều đêm thức trắng trong phòng thí nghiệm, đầu óc luôn bị cuốn vào những thí nghiệm, dù là lúc ăn hay lúc ngủ”, ông chia sẻ. Với ông, sáng tạo không chỉ là công việc, mà là đam mê sống còn.
Thành công của ông Trịnh Đình Năng không chỉ nằm ở những tấm bằng sáng chế hay các giải thưởng danh giá, mà sâu xa hơn là ở triết lý làm khoa học của ông: khoa học phải bắt nguồn từ thực tiễn và phải quay về phục vụ cuộc sống. Ông là hiện thân sống động cho tinh thần sáng tạo thực tiễn, nơi giá trị của một công trình được đo bằng hiệu quả ứng dụng chứ không phải bằng những bài báo khoa học trên giấy.
Câu chuyện của ông đã góp phần thúc đẩy một cái nhìn mới về đổi mới sáng tạo ở Việt Nam, khẳng định vai trò quan trọng của các nhà sáng chế không chuyên, những người “nói được, làm được”, đúng với tinh thần của Chính phủ tại Nghị quyết 57/NQ-CP về việc khuyến khích các hình thức sáng tạo dựa trên kết quả thực tế.
Nguồn: https://khoahocdoisong.vn/tu-tho-chan-dat-den-nha-sang-che-trieu-do-post1546751.html
Bình luận (0)