
Nhìn lại thành tựu và triển vọng từ năm 1975 đến nay, nhất là trong giai đoạn hiện nay, bên cạnh thuận lợi, vẫn còn đó khó khăn và cả hạn chế trong sự phát triển của văn học, nhưng trước hết đó phải nhìn nhận từ chính những lực cản ngay trong mỗi người cầm bút.
Theo Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam Nguyễn Quang Thiều, khả năng tự soi chiếu, nhận thức, hóa giải và tái sinh từ bên trong mỗi người viết là điều kiện sống còn của văn học. Ở góc nhìn rộng hơn, lực cản ngoài vấn đề tâm lý an toàn, còn phụ thuộc vào cách con người đối diện với thời đại mới, đặc biệt là với trí tuệ nhân tạo (AI) - yếu tố đang từng bước can thiệp sâu rộng vào cả quá trình sáng tác lẫn biên tập, đánh giá tác phẩm.
Có không ít ý kiến của những người viết thừa nhận lo ngại AI và công nghệ ngày càng phát triển sẽ thay thế con người; có người thì “không sợ” vì thật ra họ cũng chẳng hiểu về AI. Cả hai thái cực ám ảnh hoặc thờ ơ đều chung điểm yếu, đó là thiếu hiểu biết về bản chất của công nghệ.
Thực tế, nhiều người viết đã trở nên lười cảm nhận, suy tư, trải nghiệm... khi phụ thuộc vào AI; nhiều bản thảo hiện nay, dù trau chuốt câu chữ, vẫn trơ lạnh, không mang lại bất cứ sự rung cảm nào. Nếu điều đó tiếp tục, văn học sẽ dần biến thành sản phẩm kỹ thuật thay vì hành trình đặc biệt của tư duy, cảm xúc. Sự lạm dụng AI trong giới viết đang được bao biện bằng nhiều lý do: Tiết kiệm thời gian, hỗ trợ sáng tạo, gợi mở ý tưởng... Tuy nhiên, ở tầng sâu hơn, đó là dấu hiệu của khủng hoảng nội tâm khi người viết đã không còn tin vào năng lực tự khám phá của bản thân. Nếu đã hết suy tư dằn vặt, thì làm sao tồn tại giá trị đích thực của văn chương?

Ở một khía cạnh nào đó, tác phẩm văn học đang bị san phẳng bởi chính những người cầm bút và từ thái cực ngược lại, có những người viết khước từ hoàn toàn công nghệ, cho rằng đó là cách giữ gìn bản sắc, nhưng có thể lại là hình thức sợ hãi khác: Sợ thay đổi, sợ học, sợ bị vượt qua. Nhà văn có thể không ứng dụng, tương tác công nghệ, song không thể coi công nghệ như chưa hề tồn tại, bởi văn học, dù chống lại hay hòa nhập vẫn phải hòa vào tinh thần chung của thời đại.
Văn học nước nhà từng ghi dấu ấn quan trọng trong những cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước.
Nửa thế kỷ văn học sau năm 1975 chứng kiến nỗ lực đổi mới, sự xuất hiện đông đảo của đội ngũ tác giả trẻ và nhiều hình thức thể nghiệm, quảng bá..., nhưng để thật sự bước sang giai đoạn mới mang tính bước ngoặt, đột phá, thậm chí tạo nên “dư chấn” xã hội, hội nhập sôi động với văn học khu vực và thế giới, dường như người viết cần hơn nữa lòng can đảm để vượt qua chính mình. Mọi cơ chế, chính sách, giải thưởng, hội thảo… đều chỉ là chất xúc tác góp phần khích lệ, cổ vũ cho sự thay đổi thôi thúc từ bên trong người viết.
Ở tầng sâu nhất của mọi cuộc cách mạng về nghệ thuật, điều cần nhất vẫn là con người tự đổi mới để xứng đáng với khát vọng và niềm tin của chính mình, của công chúng. Với văn học, chỉ khi các nhà văn đáp ứng yêu cầu ấy, mới có thể tạo nên đời sống văn chương phát triển xứng tầm, đáp ứng đòi hỏi bức thiết của thời đại.
Nguồn: https://nhandan.vn/van-hoc-viet-nam-tu-1975-toi-nay-nguoi-cam-but-phai-no-luc-tu-doi-moi-post916357.html
Bình luận (0)