Sáng sớm ở làng chài Mỹ Quang, xã Tuy An Nam, ngư dân vừa trở về sau đêm ra khơi bám biển. Trên bờ, tiếng cười nói xen lẫn tiếng máy nổ của tàu thuyền. Giữa những câu chuyện về cá tôm, vẫn có một chủ đề đặc biệt: Nhờ cá Ông dẫn dắt mà tàu thuyền trở về an toàn, khoang đầy ắp cá.
Trong tín ngưỡng dân gian, cá Ông được gọi một cách thành kính là Ông Nam Hải. Người già trong làng kể rằng, từ xa xưa, mỗi khi bão tố ập đến, cá Ông thường xuất hiện để cứu tàu thuyền gặp nạn.
Tế lễ thần ân tại lăng Ông Nam Hải, phường Bình Kiến. |
Ông Lê Tấn Lực, người đã gắn bó hơn 50 năm với nghề chài lưới ở làng chài Mỹ Quang kể rằng: “Hồi đó tôi mới ngoài 20, một lần đi tàu ra khơi thì gặp bão bất ngờ. Sóng cao như mái nhà, tàu lắc dữ lắm. Chúng tôi dùng hết sức bình sinh để giữ vững mái chèo nhưng gió lớn quá khiến tàu mất phương hướng. Lúc đó ai cũng nghĩ khó thoát. Mọi người cùng khấn thần Nam Hải. Vậy mà chẳng bao lâu sau, trời yên biển lặng. Chúng tôi an toàn trở về”.
Ở làng biển Đông Tác, phường Phú Yên, những câu chuyện về cá Ông giúp ngư dân vẫn hiện hữu hằng ngày qua mỗi chuyến đi biển. Mọi người kể rằng, các đây vài năm một ngư dân trong lúc đánh bắt cá bị rơi xuống biển giữa cơn dông, tưởng đã mất mạng, bỗng thấy một lưng cá đen bóng trồi lên, cõng người vào bờ an toàn. Hay có lúc tàu thuyền gặp bão, cá Ông lại xuất hiện, dẫn thuyền đến vùng nước êm.
Cá Ông còn gắn với sự hưng thịnh của vạn lạch và ngư dân. Mỗi khi cá Ông xuất hiện gần bờ chính là sự hiện diện của vị thần biển, điềm báo cho mùa biển sắp tới sẽ có nhiều cá tôm, mang lại cuộc sống ấm no cho người dân.
Khi xác cá dạt vào bờ được gọi là “Ông lụy”, ngư dân tổ chức lễ tang và mai táng một cách chu đáo. Sau 1 - 3 năm, ban lạch tiến hành làm lễ thỉnh ngọc cốt Ông đưa về lăng. Đây là một nét đẹp truyền thống được giữ gìn qua nhiều đời.
Nhưng câu chuyện cá voi cứu người không chỉ là huyền thoại. Theo các nhà khoa học, cá voi là loài động vật biển có vú, chỉ ăn động vật phù du, thở bằng phổi và thường nương theo tàu thuyền hoặc các vật trôi nổi trên biển để tìm vùng nước lặng. Tập tính này vô tình tạo nên những câu chuyện “cứu người” và bồi đắp niềm tin cho ngư dân.
Trải qua năm tháng, tín ngưỡng thờ cá Ông vẫn nguyên vẹn. Gần như ở mỗi làng chài ven biển đều có lăng thờ. Dọc các địa phương ven biển của tỉnh hiện còn khoảng 41 lăng Ông. Các lăng thường mang dáng dấp của một ngôi đình, được xây gần biển và quay về hướng Đông. Nơi nào có lăng Ông thì nơi đó đều tổ chức lễ hội Cầu ngư hằng năm. Lễ hội cũng đã được vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Lăng Ông Nam Hải (lăng Long Thủy) ở phường Bình Kiến là một trong những di tích thờ cá Ông tiêu biểu. Đây là cơ sở tín ngưỡng rất quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân địa phương, mang đậm bản sắc của cộng đồng ngư dân. Lăng có kiến trúc kiểu khung nhà (dân gian thường gọi là bộ giàn trò) bằng gỗ vững chắc, mái lợp ngói vảy, tường bao xung quanh xây bằng vật liệu san hô dày đến 50 cm.
Hát bả trạo - một loại hình diễn xướng dân gian trong lễ hội Cầu ngư. |
Lăng đang lưu giữ khoảng 20 bộ ngọc cốt cá Ông. Hằng năm, ngư dân địa phương đều tổ chức lễ hội Cầu ngư để tái hiện phong tục thờ cúng cá Ông, thể hiện nhu cầu tâm linh của người dân trong vùng. Ông Nguyễn Cho, Trưởng Ban Trị sự lăng Long Thủy cho biết: Cá Ông được thờ cúng trong lăng rất linh thiêng gắn với nhiều câu chuyện kỳ bí, nhất là trong việc giúp ngư dân vững vàng mỗi khi ra khơi bám biển, góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Lễ hội Cầu ngư không có ngày thống nhất chung, mỗi nơi tùy thuộc vào ngày cá Ông đầu tiên lụy hoặc theo quyết định của ban vạn. Lễ hội được thể hiện qua các nghi lễ đặc sắc và loại hình diễn xướng dân gian phong phú. Mọi người trong làng chung tay sửa soạn từng lễ vật, chuẩn bị chu đáo mâm lễ cúng. Họ nghiêm cẩn trong từng giờ từng phút làm lễ, kính cẩn gửi niềm tin vào mẹ biển đầy thành kính và chân thành, cầu mong một năm mưa thuận gió hòa, tôm cá đầy khoang. Đó cũng là sức mạnh tâm linh để lễ Cầu ngư được duy trì và tiếp nối qua hàng trăm năm, qua bao đời ngư dân, để lưu truyền một không gian văn hóa đặc biệt.
Theo các ngư dân, lễ hội Cầu ngư có thể được xem như yếu tố làm cân bằng nhiều nỗi lo âu, khắc khoải trong cuộc sống đời thường. Lễ hội còn là dịp thăm viếng lẫn nhau giữa chủ ghe và bạn chài, giữa chủ vạn với ngư dân để tình làng nghĩa xóm được thắt chặt. Đây còn là dịp để ngư dân vui chơi, giải trí sau những tháng ngày lao động nhọc nhằn, gắn kết cộng đồng và du khách.
Những năm gần đây, lễ hội Cầu ngư không chỉ là một sự kiện văn hóa, mà đang dần trở thành sản phẩm du lịch đặc trưng của địa phương. Trong xu thế du lịch hiện đại, nơi du khách không chỉ tìm đến cảnh đẹp mà còn mong muốn những trải nghiệm bản địa sâu sắc, thì di sản văn hóa như lễ hội Cầu ngư chính là vốn quý để khai thác và kích thích tăng trưởng du lịch bền vững.
Những câu chuyện huyền bí về cá Ông được người này kể lại cho người kia, từ cảng cá cho tới quán nước ven đường, thành ký ức tập thể của cả làng. Mọi người có thêm niềm tin vào cá Ông, yên tâm ra khơi bám biển, vì tin rằng, khi gặp nạn sẽ có cá Ông xuất hiện chở che ngư dân.
Nguồn: https://baodaklak.vn/xa-hoi/202508/ve-lang-chai-nghe-chuyen-ong-nam-hai-df20df4/
Bình luận (0)