Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

TCCS - Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại là chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà nước góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu của toàn quân, đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới. Trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, đây cũng là điều kiện tiên quyết để Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.

Tạp chí Cộng SảnTạp chí Cộng Sản25/07/2025

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm dự lễ khai giảng tại Học viện Quốc phòng, tháng 9-2024_Nguồn: qdnd.vn

Sứ mệnh của Quân đội nhân dân Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đánh dấu một bước phát triển mới, cao hơn, toàn diện hơn, sâu sắc hơn trong tiến trình đi đến mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Quân đội nhân dân Việt Nam luôn đồng hành cùng sự ra đời, phát triển đấu tranh giải phóng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại là một trong những tiền đề quan trọng để dân tộc phát triển trong kỷ nguyên vươn mình. Sự phát triển và lớn mạnh không ngừng của Quân đội nhân dân Việt Nam góp phần quan trọng giữ vững hòa bình, ổn định đất nước, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, khoa học, mở rộng quan hệ quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo nên sức mạnh to lớn để phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa; hướng tới những dấu mốc phát triển quan trọng của đất nước ta trong những thập niên sắp tới: Đến năm 2025: Là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030: Là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước, hàng trăm triệu người như một, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng tâm hiệp lực, chung sức, đồng lòng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh, thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu trên con đường đi tới chủ nghĩa xã hội. Sự phát triển vươn mình lên tầm cao mới của dân tộc trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội tạo môi trường, tiền đề quan trọng để Quân đội nhân dân Việt Nam tiến lên cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đồng hành cùng dân tộc Việt Nam trên con đường đi tới phát triển, phồn vinh, độc lập, ấm no, tự do, hạnh phúc.

Những năm tới, dự báo tình hình thế giới và khu vực, xu thế hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là chủ đạo. Song, cuộc cạnh tranh, đấu tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, nhất là tranh chấp chủ quyền biển, đảo, không gian mạng, vũ trụ, kinh tế, văn hóa,... diễn ra phức tạp, quyết liệt. Xuất hiện nhiều loại vũ khí và chiến tranh phi tiếp xúc với phương thức tác chiến đan xen giữa truyền thống và phi truyền thống ngày càng trở nên phổ biến trên thế giới và trong tương lai. Các vấn đề an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, biến đổi khí hậu, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, khủng bố, tội phạm, thiên tai, dịch bệnh,... ngày càng diễn biến phức tạp. Sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ; cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế của đất nước không ngừng được nâng cao, tạo tiền đề quan trọng để phát triển mạnh mẽ, bền vững hơn trong kỷ nguyên vươn mình.

Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức về sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước, quân đội bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội,... với những âm mưu, thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc, khó nhận diện. Tình hình trên đặt ra yêu cầu mới rất cao đối với sự phát triển trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Để hoàn thành trọng trách to lớn của mình trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc, Quân đội nhân dân Việt Nam phải góp phần thực hiện tốt đổi mới, cải tiến phương thức lãnh đạo của Đảng trong quân đội. Thực hiện nghiêm phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, tuyệt đối không để xảy ra bao biện, làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng; đổi mới mạnh mẽ việc ban hành và quán triệt, thực hiện nghị quyết của Đảng phải ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ tiếp thu, dễ thực hiện. Luôn nhất quán và thực hiện tốt thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, phát huy dân chủ trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; tập trung kiểm soát quyền lực trong thực hiện nhiệm vụ, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là trách nhiệm người đứng đầu, kiên quyết chống tiêu cực, “lợi ích nhóm”.

Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam “tinh, gọn, mạnh, hiện đại” tiến lên cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại góp phần quan trọng vào tinh gọn tổ chức bộ máy, xây dựng, tinh gọn bộ máy tổ chức Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội để hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tập trung lãnh đạo quán triệt, nắm vững đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Kế hoạch của Bộ Quốc phòng đúng tiến độ, lộ trình. Từng cấp chủ động xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chặt chẽ, khoa học, với lộ trình, bước đi cụ thể, điều chỉnh tăng, giảm tổ chức, quân số của từng khối phù hợp với đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân, khả năng bảo đảm vũ khí, trang bị, giữ vững và phát huy truyền thống quân đội, nghệ thuật quân sự Việt Nam; điều chỉnh tổ chức Quân đội có cơ cấu đồng bộ, hợp lý giữa các thành phần, lực lượng; giảm đầu mối trung gian và đơn vị phục vụ, bảo đảm. Tiếp tục tổ chức một số đơn vị dự bị chiến lược phù hợp với quyết tâm bảo vệ Tổ quốc và yêu cầu chiến đấu trong tình hình mới.

Một số giải pháp trọng tâm xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội nhân dân Việt Nam phát triển toàn diện góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực, uy tín đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Luôn nhất quán quan điểm “người trước, súng sau”, thường xuyên quan tâm, chăm lo xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, toàn diện về phẩm chất, năng lực, uy tín, tâm, tầm, trí. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ chiến dịch, chiến lược có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đột phá vì lợi ích chung; hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích của nhân dân lên trên hết, trước hết; có năng lực cụ thể, tổ chức thực hiện, đưa chủ trương của Đảng vào thực tiễn. Bảo đảm cả về số lượng và chất lượng, cơ cấu theo lộ trình hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật và phương thức tác chiến của các quân chủng, binh chủng, lực lượng. Tập trung đột phá trong đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học quân sự, chuyên gia đầu ngành, đội ngũ nhà giáo ở học viện, nhà trường, viện nghiên cứu, cơ quan chiến lược; phát triển đội ngũ cán bộ quân sự, chính trị chất lượng cao, đội ngũ cán bộ hậu cần, kỹ thuật có trình độ, năng lực chuyên môn sâu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; bảo đảm nhu cầu sử dụng cho cả trước mắt và lâu dài. Theo đó, để tăng cường xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc cần thực hiện đồng bộ, hiệu quả một số giải pháp trọng tâm sau:

Thứ nhất, đổi mới, nâng cao chất lượng huấn luyện - đào tạo ở các nhà trường quân đội góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có đủ phẩm chất, năng lực chuyên môn, lãnh đạo, chỉ huy, quản lý,... theo nhiệm vụ, chức trách. Gắn đào tạo ở nhà trường với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở đơn vị; gắn nhà trường với chiến trường, thực hiện chủ trương “nhà trường đi trước một bước”; gắn lý luận với thực tiễn; gắn trách nhiệm của cấp ủy, người chỉ huy với kết quả huấn luyện của đơn vị. Tổ chức huấn luyện bảo đảm đúng phương châm “Chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị”. Thực hiện tốt quan điểm, nguyên tắc; chú trọng truyền thụ kinh nghiệm thực tiễn, nâng cao năng lực thực hành, làm chủ vũ khí, trang bị, khí tài mới, hiện đại, sức cơ động và khả năng tác chiến trong điều kiện mới cho các đối tượng; tích cực ứng dụng công nghệ thông tin, mô phỏng, kỹ thuật hiện đại trong huấn luyện bộ đội. Nâng cao toàn diện chất lượng cuộc diễn tập, hội thao, hội thi góp phần xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.

Thứ hai, kết hợp chặt chẽ tăng cường quốc phòng với phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng, rà soát, điều chỉnh quy hoạch tổng thể bố trí quốc phòng kết hợp với phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn cả nước. Bố trí về tiềm lực, lực lượng, thế trận quốc phòng kết hợp bố trí tiềm lực, lực lượng, thế trận kinh tế - xã hội. Kết hợp trong xây dựng và phát triển khu kinh tế - quốc phòng. Quy hoạch xây dựng và phát triển khu kinh tế - quốc phòng, đoàn kinh tế quốc phòng phối hợp, kết hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương ổn định, sắp xếp dân cư, tạo điều kiện để nhân dân phát triển sản xuất gắn với củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh trên địa bàn, thực hiện phúc lợi xã hội, bảo vệ tốt môi trường tự nhiên và môi trường văn hóa, đẩy mạnh sản xuất. Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân vững chắc. Tạo hình thái bố trí thế trận phòng thủ mới, gắn phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh đáp ứng xây dựng hệ thống chiến lược về kinh tế, quốc phòng trên địa bàn chiến lược, trọng yếu của đất nước. Chú trọng xây dựng mới khu kinh tế - quốc phòng trên biển, đảo gần bờ. Xây dựng cơ chế phối hợp ưu tiên bố trí nguồn lực trong chương trình mục tiêu, dự án trọng điểm của Nhà nước để thực hiện trên địa bàn khu kinh tế - quốc phòng. Bảo đảm quốc phòng - an ninh địa bàn chiến lược, biên giới, biển, hải đảo góp phần phát triển kinh tế - xã hội vùng dự án; xây dựng, củng cố thế trận khu vực phòng thủ trên đất liền, biển, hải đảo gắn với đầu tư hạ tầng thiết yếu, kết hợp bố trí, sắp xếp, ổn định dân cư trên địa bàn theo quy hoạch phát triển vùng, lãnh thổ, các ngành, lĩnh vực và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương. Xây dựng địa bàn vững mạnh về quốc phòng - an ninh và kinh tế - xã hội. Tuyên truyền, vận động nhân dân nắm vững và thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của địa phương, đấu tranh phòng, chống các thủ đoạn truyền bá, xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch. Tham gia sắp xếp, bố trí dân cư theo quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và mục tiêu lâu dài của quốc phòng - an ninh. Đầu tư xây dựng hạ tầng thiết yếu tại địa bàn khu kinh tế - quốc phòng trên đất liền, ven biển, hải đảo theo quy hoạch được duyệt; tham gia thực hiện chương trình mục tiêu, chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình khuyến nông, khuyến công tạo tiền đề cho phát triển kinh tế hàng hóa, giúp người dân xóa đói, giảm nghèo bền vững. Xây dựng dự án, quy hoạch, kế hoạch thăm dò, khai thác kinh tế biển, đảo, gắn liền với bảo vệ biển, đảo,... được tính toán, dự báo kịp thời và đầy đủ. Dân sự hóa trên vùng biển, đảo phải gắn kết với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh trên vùng biển, đảo. Xây dựng khu kinh tế - quốc phòng khu vực ven biển và đảo phải tuân thủ yêu cầu trong kế hoạch tổng thể của khu vực phòng thủ địa phương, phải mang tính hệ thống, bảo đảm sự liên kết chặt chẽ giữa biển, đảo với đất liền. Kết hợp chặt chẽ giữa thế trận “tĩnh” của đảo và bờ với thế “động” của lực lượng tác chiến cơ động trên biển, tạo nên thế trận quốc phòng toàn dân trên biển - đảo - bờ liên hoàn, vững chắc.

Chiến sĩ đặc nhiệm chống khủng bố của Lữ đoàn 126 Hải quân huấn luyện sẵn sàng chiến đấu (ảnh: Phạm Văn Tùng)_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Thứ ba, xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật. Phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng tự chủ, tự cường, hiện đại và lưỡng dụng, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia, đạt trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại; có quy mô tổ chức, cơ chế quản lý và hoạt động phù hợp; phát huy tốt vai trò, trách nhiệm và sự tham gia tích cực, hiệu quả của các thành phần kinh tế, góp phần nâng cao tiềm lực, sức mạnh quân sự, quốc phòng của đất nước. Gắn phát triển công nghiệp quốc phòng với công nghiệp quốc gia, có cơ cấu hợp lý trong tổng thể nền công nghiệp quốc gia, ưu tiên hướng tới công nghệ hiện đại, hiệu quả cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ trang nhân dân. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp quốc phòng dài hạn, trung hạn, phù hợp với điều kiện mới. Ưu tiên phát triển ngành, sản phẩm công nghiệp cơ bản, có tính lưỡng dụng cao. Đầu tư xây dựng có trọng điểm một số cơ sở công nghiệp quốc phòng có công nghệ tiên tiến, hiện đại, tiến tới hình thành tập đoàn, tổ hợp công nghiệp quốc phòng lưỡng dụng, công nghệ cao, có nhiệm vụ nghiên cứu, sản xuất và bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự. Trước mắt, tập trung xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng với quy mô, tổ chức, cơ chế quản lý phù hợp, phát huy vai trò, trách nhiệm tự chủ của cơ sở công nghiệp quốc phòng. Kiện toàn tổ chức ngành kỹ thuật theo hướng “tinh, gọn, mạnh, thống nhất”, phù hợp với tính năng công nghệ của vũ khí, trang bị kỹ thuật và nhiệm vụ của từng cấp; bảo đảm công tác quản lý, chỉ huy, chỉ đạo thông suốt, không chồng chéo. Đổi mới phương thức bảo đảm kỹ thuật đối với vũ khí, trang bị kỹ thuật thế hệ mới, công nghệ cao theo hướng tập trung, thống nhất; đổi mới tư duy sản xuất vật tư kỹ thuật theo hướng mở rộng liên doanh, liên kết, xã hội hóa. Nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng, nhằm tận dụng, huy động nguồn lực từ bên ngoài phục vụ sự nghiệp hiện đại hóa quân đội, đẩy mạnh hợp tác trên các lĩnh vực, cần thúc đẩy hợp tác trong phát triển công nghiệp quốc phòng, kỹ thuật quân sự, kết hợp với mua sắm vũ khí, khí tài mới, hiện đại và gắn với chuyển giao công nghệ, nhất là công nghệ mới, hiện đại.

Thứ năm, thực hiện cải cách hành chính và chuyển đổi số mạnh mẽ trong toàn quân. Phát hiện khó khăn, “điểm nghẽn” để tháo gỡ, hoàn thành toàn bộ chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao về cải cách hành chính và chuyển đổi số, bảo đảm chất lượng, tiến độ, hiệu quả. Đồng thời, xác định, lựa chọn đột phá có phạm vi ảnh hưởng sâu rộng đối với vấn đề, lĩnh vực mà cơ quan, đơn vị phụ trách để ưu tiên triển khai cải cách hành chính, chuyển đổi số, xử lý công việc trên môi trường điện tử. Khai thác và sử dụng thường xuyên ứng dụng dùng chung của Bộ Quốc phòng, ứng dụng chuyên ngành tại các cơ quan, đơn vị toàn quân. Tiếp tục thử nghiệm Hệ sinh thái số trên hạ tầng truyền dẫn không dây có bảo mật. Tập trung vào nhiệm vụ có phạm vi ảnh hưởng sâu rộng tới ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý cần điều chỉnh, bổ sung về chuyển đổi số để triển khai thực hiện hiệu quả. Huy động nguồn lực, đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật, nhất là trang bị kỹ thuật hiện đại để phục vụ công tác cải cách hành chính và chuyển đổi số. Tập trung tháo gỡ, giải quyết vướng mắc về hạ tầng công nghệ, bảo mật, đường truyền dữ liệu; tổ chức kết nối, chia sẻ dữ liệu gốc để phát huy tối đa giá trị của dữ liệu, tránh lãng phí. Tổ chức tuyển chọn, tuyển dụng, đào tạo nâng cao trình độ, khả năng làm chủ khoa học, công nghệ cho đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên môn trực tiếp làm nhiệm vụ cải cách hành chính và chuyển đổi số. Chú trọng bồi dưỡng, tập huấn về khoa học kỹ thuật, công nghệ mới, hiện đại, bảo đảm cho đội ngũ này có đủ năng lực quản lý, sử dụng, vận hành thành thạo trang thiết bị công nghệ thông tin, hạ tầng kỹ thuật số và xử lý công việc trên môi trường điện tử, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Làm tốt công tác bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng phục vụ cải cách hành chính và chuyển đổi số. Tăng cường hướng dẫn, theo dõi, giám sát, kiểm tra việc chấp hành quy định về an toàn thông tin, an ninh mạng; yêu cầu cơ quan, đơn vị thực hiện nghiêm quy định về an toàn thông tin, an ninh mạng cho mọi thiết bị, sản phẩm, phần mềm và hệ thống thông tin cũng như dự án đầu tư về công nghệ thông tin, chuyển đổi số,... theo đúng quy định của pháp luật và tăng cường bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ. Tiếp tục thẩm định, xác định cấp độ an toàn thông tin và triển khai đầy đủ phương án bảo đảm an toàn thông tin theo cấp độ được phê duyệt cho hệ thống thông tin trong phạm vi quản lý; tổ chức giám sát chặt chẽ mạng máy tính quân sự, kịp thời phát hiện cảnh báo, xác minh, xử lý lỗ hổng, nguy cơ gây mất an toàn thông tin. Kết nối an toàn phục vụ kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa mạng truyền số liệu quân sự với mạng truyền số liệu chuyên dùng của Đảng, Nhà nước; hoàn thiện quy trình, tổ chức luyện tập, diễn tập bảo đảm an toàn thông tin, ứng cứu sự cố; tiến hành đánh giá, nâng cao năng lực của lực lượng ứng cứu sự cố, bảo đảm an toàn thông tin tại cơ quan, đơn vị trong toàn quân. Chú trọng triển khai chặt chẽ, hiệu quả giải pháp bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng đối với các cơ quan Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ; đẩy mạnh mở rộng hạ tầng mạng máy tính quân sự, dịch vụ giám sát bảo đảm an toàn thông tin tại cơ quan, đơn vị trong toàn quân.

Thứ sáu, tích cực, chủ động chống lãng phí. Nhận thức rõ lãng phí tuy không lấy của công đút túi, song hậu quả rất nguy hại cho nhân dân, cho đất nước. Những năm qua, lãng phí đã và đang gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng cho phát triển, gây suy giảm nguồn lực con người, nguồn lực tài chính, giảm hiệu quả sản xuất, tăng gánh nặng chi phí, gây cạn kiệt tài nguyên, gia tăng khoảng cách giàu nghèo; gây suy giảm lòng tin của người dân với Đảng, Nhà nước, tạo rào cản vô hình trong phát triển kinh tế - xã hội, bỏ lỡ thời cơ phát triển của đất nước và sự nghiệp quốc phòng - an ninh bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh phòng, chống lãng phí tương đương với phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong toàn quân. Luôn nhất quán thực hiện quy định của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng để quán triệt và thực thi trong toàn quân; xử lý nghiêm cá nhân, tập thể có hành vi, việc làm gây thất thoát, lãng phí tài sản công theo tinh thần “xử lý một vụ cảnh tỉnh cả vùng cả lĩnh vực”. Trong công tác quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng chỉ đạo toàn quân phải nhận rõ khó khăn, nắm bắt khả năng bảo đảm, kiểm soát chặt chẽ từ khâu xem xét phân bổ ngân sách, giữ đúng định hướng, tập trung cho nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm theo thứ tự ưu tiên, cân đối vững chắc, toàn diện, ngày càng nâng cao tiềm lực quốc phòng; đáp ứng nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, diễn tập, nhiệm vụ biển, đảo, biên giới, thao trường, bãi tập, giáo dục - đào tạo; bảo đảm đời sống, chính sách,…; tích cực huy động thêm nguồn thu, nâng cao khả năng đáp ứng nhiệm vụ đột xuất được giao. Thực hiện chỉ đạo của Bộ Quốc phòng, các cấp, các ngành luôn chú trọng công tác kiểm soát thu và chi ngân sách, duyệt giá mua sắm, quản lý chặt chẽ mọi nguồn thu, có nhiều giải pháp hiệu quả, bảo đảm chi tiêu chặt chẽ, đúng quy định của Luật Ngân sách nhà nước, Điều lệ công tác Tài chính Quân đội nhân dân Việt Nam; chính sách, chế độ, định mức, tiêu chuẩn; bảo đảm đúng mục đích, tiết kiệm, hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí. Trong quản lý đầu tư và xây dựng, Bộ Quốc phòng chỉ đạo tiếp tục tăng cường quản lý, nâng cao hiệu quả nguồn vốn đầu tư; bảo đảm tiết kiệm trong đầu tư và xây dựng. Tiếp tục đẩy nhanh quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành, qua thực hiện kế hoạch thẩm tra quyết toán dự án, công trình hoàn thành; giảm chi đáng kể cho ngân sách. Công tác quản lý, sử dụng vốn và tài sản tại doanh nghiệp đã kết hợp giải pháp tăng cường quản lý điều hành sản xuất, kinh doanh với thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn, tài sản; có nhiều biện pháp để giải quyết tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, giảm chi phí quản lý, hạ giá thành sản phẩm, bảo đảm thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo ngành Tài chính phối hợp chặt chẽ với các ngành tiếp tục chỉ đạo cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp triệt để thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sinh hoạt, tiêu dùng, thực hiện công khai, minh bạch trong các lĩnh vực, như chế độ, chính sách; công khai việc mua sắm tài sản công… phù hợp với đặc điểm cơ quan, đơn vị, địa phương mình. Rà soát, bổ sung quy định về cơ chế quản lý, định mức kinh tế - kỹ thuật không còn phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước. Hoàn thiện quy định xử lý hành vi lãng phí; quy định về quản lý, sử dụng tài sản công; thể chế trong ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, tạo sự đồng bộ trong chuyển đổi để giảm thiểu lãng phí. Giải quyết dứt điểm tồn tại kéo dài đối với dự án quan trọng quốc gia, dự án trọng điểm, dự án hiệu quả thấp, gây thất thoát, lãng phí lớn; ngân hàng thương mại yếu kém. Sớm hoàn thành cổ phần hóa, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Đưa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trở thành “tự giác”, “tự nguyện”, “cơm ăn nước uống, áo mặc hằng ngày”, thành văn hóa phòng, chống lãng phí trong Quân đội nhân dân Việt Nam và trong toàn xã hội. 

Xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại là chủ trương nhất quán, đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, là tiền đề, động lực góp phần đưa dân tộc phát triển trong kỷ nguyên vươn mình. Thực hiện chủ trương này sẽ bảo đảm cho quân đội ta có đủ sức mạnh, hoàn thành tốt vai trò là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa từ sớm, từ xa trong kỷ nguyên phát triển vươn mình của dân tộc ./.

Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-ngoai1/-/2018/1110402/xay-dung-quan-doi-nhan-dan-viet-nam-cach-mang%2C-chinh-quy%2C-tinh-nhue%2C-hien-dai-dap-ung-yeu-cau%2C-nhiem-vu-trong-ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc.aspx


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Tên lửa S-300PMU1 trực chiến bảo vệ bầu trời Hà Nội
Mùa sen nở rộ thu hút du khách đến với vùng non nước hùng vĩ Ninh Bình
 Cù Lao Mái Nhà: Nơi sự hoang sơ, hùng vĩ và bình yên cùng hòa quyện
Hà Nội lạ thường trước giờ bão Wipha đổ bộ

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm