Với bờ biển dài 250km, Quảng Ninh có diện tích mặt biển hơn 6.000km², trên 43.000ha rừng ngập mặn và bãi triều và trên 32.000ha NTTS. Đây được coi là tiềm năng, lợi thế để phát triển ngành NTTS mặt nước và đáy, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người dân vùng ven biển. Trước đây, người dân ở các địa phương ven biển thường sử dụng tre, luồng và phao xốp kết làm giàn bè để nuôi các loại thủy sản như cá, hàu, hà. Việc dùng phao xốp được người dân lựa chọn vì giá rẻ, độ nổi mặt nước tốt, nhưng độ bền không cao, nên chỉ vài năm đưa vào sử dụng, nhất là khi vào mùa mưa bão, các bè NTTS bị sóng to, gió lớn đánh vỡ, phao xốp vỡ nát, tre, luồng trôi dạt trên biển, vừa gây thiệt hại về tài sản, vừa gây ô nhiễm môi trường biển.
Để giải bài toán thay thế phao xốp trong NTTS, hướng tới phát triển ngành thủy sản bền vững, năm 2020, tỉnh Quảng Ninh là địa phương đầu tiên trong cả nước ban hành Quy chuẩn kỹ thuật địa phương (QCKTĐP) về vật liệu sử dụng làm phao nổi trong NTTS lợ, mặn trên địa bàn tỉnh. Đây được coi là bước ngoặt trong quản lý ngành thủy sản, thể hiện quyết tâm đưa nuôi biển phát triển theo hướng văn minh, hiện đại. Trong đó, việc thay đổi được quy định rõ lộ trình thực hiện là từ ngày 1/1/2021. Đến ngày 1/1/2023, các cơ sở NTTS đang sử dụng vật liệu làm phao nổi không phù hợp phải thực hiện chuyển đổi toàn bộ vật liệu để đáp ứng yêu cầu của quy chuẩn.
Ông Đỗ Đình Minh, Chi cục trưởng Chi cục Biển, Hải đảo và Thủy sản, Kiểm ngư (Sở NN&MT) cho biết: Các cơ quan chức năng đã tổ chức điều tra khảo sát, đánh giá hiện trạng sử dụng và quản lý các vật liệu làm phao nổi trong NTTS lợ, mặn; nghiên cứu đánh giá tác động môi trường của các vật liệu sử dụng làm phao nổi và các giải pháp giảm thiểu tác động tiêu cực của vật liệu sử dụng làm phao nổi đang được sử dụng trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó, tham khảo các tiêu chí về độ bền của vật liệu được tổng hợp theo các tài liệu của FAO 2015 và các tài liệu có liên quan; các tiêu chuẩn Việt Nam liên quan đến các phép thử xác định độ bền của vật liệu.
Đặc biệt, ngay sau khi Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Chỉ thị số 13-CT/TU (năm 2021) về tăng cường công tác quản lý và phát triển bền vững NTTS trên biển, UBND tỉnh cùng các sở, ngành, địa phương đã nhanh chóng cụ thể hóa bằng nhiều văn bản, kế hoạch, chương trình hành động. Các tổ công tác được thành lập, trực tiếp xuống cơ sở để tuyên truyền, hướng dẫn, tháo gỡ khó khăn cho người dân và doanh nghiệp. Đồng thời, hướng dẫn, đôn đốc, xử lý, di dời các trường hợp vi phạm NTTS trái phép; sắp xếp ổn định các vùng nuôi biển tập trung.
Để bảo đảm chất lượng vật liệu thay thế, Sở NN&MT cũng đã thẩm định, tiếp nhận hồ sơ công bố hợp quy của 27 đơn vị sản xuất, cung ứng phao nhựa. Danh sách này được công khai rộng rãi trên các phương tiện truyền thông để người dân tiếp cận, tránh mua phải sản phẩm kém chất lượng. Những đơn vị vi phạm quy định, cung ứng hàng không đạt chuẩn đã bị thu hồi giấy phép và xử lý nghiêm. Nhờ đó, nhiều địa phương vốn là điểm nóng về phao xốp trong NTTS giờ đã cơ bản thay thế sang các vật liệu thân thiện với môi trường.
Điển hình như đặc khu Vân Đồn là địa phương có diện tích nuôi biển lớn nhất tỉnh, từng có tới hơn 5 triệu quả phao xốp trên gần 1.000 cơ sở NTTS. Trước yêu cầu của tỉnh, địa phương đã nhanh chóng xây dựng kế hoạch, yêu cầu mỗi tháng phải giảm hoặc thay thế ít nhất 10% phao xốp. Song song với đó, các xã như Quan Lạn, Bản Sen, Đông Xá… đều lập tổ công tác xuống tận hiện trường, hỗ trợ người dân tháo dỡ, thu gom và chuyển về nơi tập kết. Đầu năm 2023, Vân Đồn tổ chức đợt cao điểm với hàng trăm cán bộ, lực lượng trực tiếp tham gia thu gom. Tính đến tháng 4/2023, hàng trăm nghìn phao xốp đã được loại bỏ. Địa phương còn kiên quyết cưỡng chế các trường hợp cố tình chây ỳ, đồng thời tạo điều kiện cho những hộ khó khăn được hỗ trợ thu gom miễn phí. Nhờ đó, đến cuối năm 2023, địa phương đã cơ bản hoàn thành việc chuyển đổi, đạt tỷ lệ gần 99%.
Còn tại TX Quảng Yên (cũ) có hàng trăm bè với gần 17.000 quả phao xốp, từ năm 2020, địa phương đã kiên trì vận động người dân thay thế, nhưng do chi phí phao HDPE cao hơn nhiều lần, cộng thêm ảnh hưởng thu nhập sau dịch bệnh nên tiến độ chuyển đổi diễn ra chậm. Một số hộ chỉ thay lớp phao bên ngoài, còn bên trong vẫn tận dụng phao xốp cũ. Trước những khó khăn này, địa phương đã kiên trì tìm các giải pháp tháo gỡ, kết nối người dân với các nhà sản xuất phao HDPE hợp quy, công khai danh mục, giá cả để dễ tiếp cận, đồng thời vận động gắn với cấp phép nuôi biển theo quy hoạch, bảo đảm sau khi thu hoạch, toàn bộ các bè còn lại cũng sẽ hoàn thành chuyển đổi.
Thống kê đến hết tháng 6/2025, tỷ lệ chuyển đổi phao xốp toàn tỉnh đạt trên 99,5%. Hàng triệu quả phao xốp được thu gom, xử lý đúng quy trình, thay thế bằng phao HDPE đạt chuẩn. Cùng với đó, tỉnh còn đẩy mạnh đầu tư hạ tầng nuôi biển tập trung, khu sản xuất giống, và giám sát môi trường chặt chẽ. Các mô hình nuôi kết hợp công nghệ cao, gắn với du lịch tại vùng biển Hạ Long, Bái Tử Long đang cho thấy triển vọng nhân rộng, vừa tạo sinh kế, vừa phát huy giá trị cảnh quan di sản. Đây là nỗ lực bền bỉ, không chỉ bảo vệ môi trường mà còn góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm thủy sản, hướng tới truy xuất nguồn gốc và thị trường xuất khẩu.
Hành trình 5 năm qua với gần 10 triệu quả phao xốp được thay thế cho thấy, câu chuyện chuyển đổi phao xốp ở Quảng Ninh không chỉ là sự thay đổi một vật liệu, mà còn là minh chứng cho tư duy phát triển mới là lấy bền vững làm nền tảng.
Nguồn: https://baoquangninh.vn/xoa-phao-xop-de-bao-ve-moi-truong-bien-3372382.html
Bình luận (0)