Theo ông Hà Huy Thông, hợp tác tìm kiếm quân nhân Hoa Kỳ mất tích (MIA) và những cuộc gặp giữa cựu binh - nhà văn hai nước đã mở lại kênh tiếp xúc Việt Nam - Hoa Kỳ, khởi đầu cho tiến trình hòa giải sau chiến tranh.
MIA nối lại đối thoại Việt Nam - Hoa Kỳ
Năm 1977, Việt Nam và Hoa Kỳ bắt đầu đàm phán bình thường hóa quan hệ dưới thời Tổng thống Jimmy Carter. Cuộc gặp đầu tiên tại Paris (Pháp) tháng 5/1977 không đạt mục tiêu thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ, nhưng mang lại kết quả quan trọng: Hoa Kỳ không phản đối việc Việt Nam gia nhập Liên hợp quốc. Ngày 20/9/1977, Việt Nam chính thức trở thành thành viên Liên hợp quốc.
Từ năm 1978, bối cảnh quốc tế thay đổi, cơ hội bình thường hóa hẹp lại dù Việt Nam tuyên bố sẵn sàng bình thường hóa vô điều kiện. Năm 1979, viện dẫn “vấn đề Campuchia”, Hoa Kỳ tuyên bố dừng đàm phán, khiến quan hệ hai nước gần như đóng băng.
Sau khi nhậm chức năm 1981, Tổng thống Ronald Reagan coi vấn đề MIA là ưu tiên quốc gia. Quan hệ hai nước từng bước mở lại cánh cửa sau nhiều năm gián đoạn.
Theo lời kể của ông Hà Huy Thông, tháng 02/1982, Phó Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Richard Armitage sang Việt Nam nêu vấn đề MIA. Ông Thông (khi ấy công tác tại Vụ Bắc Mỹ - Bộ Ngoại giao) tham dự cuộc tiếp do Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch chủ trì.
"Tại cuộc tiếp, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch khẳng định Việt Nam coi MIA là vấn đề nhân đạo và sẵn sàng hợp tác, đồng thời phía Hoa Kỳ cũng cần phối hợp giải quyết vấn đề bộ đội Việt Nam mất tích và các vấn đề nhân đạo khác do chiến tranh để lại. Ông nói thẳng mà khéo, ví việc hợp tác nhân đạo như "con đường hai chiều", nhằm giải quyết vấn đề của cả hai phía", ông Hà Huy Thông kể lại.
Từ ngày 01 đến 03/8/1987, Đại tướng John Vessey, nguyên Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ, đặc phái viên của Tổng thống Reagan về các vấn đề tù binh chiến tranh và quân nhân mất tích (POW/MIA), đến Việt Nam bàn hợp tác nhân đạo. Trong đoàn có Frederick Downs, cựu binh bị mất cánh tay trái sau khi giẫm phải mìn tại chiến trường Việt Nam năm 1967.
![]() |
| Ông Frederick Downs và vợ là bà Mary đón bác sĩ Bùi Tùng (ở giữa) tại sân bay Dulles (Washington, D.C.) trong chuyến thăm Hoa Kỳ của ông từ ngày 28/11 đến 3/12/1988. (Ảnh chụp từ cuốn sách “No Longer Enemies, Not Yet Friends: An American Soldier Returns to Vietnam”) |
Trong cuốn “No Longer Enemies, Not Yet Friends: An American Soldier Returns to Vietnam” (tạm dịch: “Không còn là kẻ thù, chưa là bạn: Một lính Hoa Kỳ trở lại Việt Nam”, xuất bản năm 1991, nhà xuất bản WW Norton & Co, Inc.) được viết sau 5 lần đến Việt Nam, Downs thuật lại rằng phía Hoa Kỳ nêu những vấn đề quan tâm như con lai, người ra đi theo Chương trình có trật tự (ODP), người trong trại học tập (HO). Phía Việt Nam trình bày những hệ lụy chiến tranh: hàng triệu người khuyết tật, hàng trăm nghìn trẻ mồ côi, trường học và bệnh viện bị tàn phá…
Hai bên thống nhất chia thành hai nhóm làm việc: một về POW/MIA; một về các vấn đề nhân đạo của Việt Nam, trước hết là chương trình chân tay giả.
Ngày 13/10/1987, Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ công bố báo cáo của Đặc phái viên Tổng thống Hoa Kỳ và tổ chức phi chính phủ về người khuyết tật tại Việt Nam. Do cấm vận, chính phủ Hoa Kỳ chưa thể tài trợ, song báo cáo khuyến khích các tổ chức phi chính phủ Hoa Kỳ hỗ trợ các dự án nhân đạo tại Việt Nam.
Trong sách, Downs viết rằng trước khi đến Việt Nam, ông đọc báo cáo Liên hợp quốc xếp Việt Nam rất thấp về mức độ thịnh vượng. Sự nghèo khó hiện lên trên đường từ sân bay vào thành phố, nhưng ông không gặp thái độ thù hận nào của người dân. Ông kể về cuộc gặp ngày 26/8/1987 với Vụ trưởng Vụ Bắc Mỹ (Bộ Ngoại giao Việt Nam) Đặng Nghiêm Bái và bác sĩ Bùi Tùng, Giám đốc cơ sở chân tay giả thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
Sau năm 1987, Downs hỗ trợ các dự án tại Trường trẻ câm điếc Xã Đàn, Trường mù Nguyễn Đình Chiểu... Tháng 11-12/1988, ông mời bác sĩ Bùi Tùng tháp tùng Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thừa Thiên Huế Nguyễn Đình Ngộ thăm Hoa Kỳ và gia đình ông tại Washington, D.C.
Downs cho rằng chính những vấn đề nhân đạo là chất xúc tác để hai bên giải quyết bất đồng. Ông viết: "Tôi đã trở thành một phần của Việt Nam và Việt Nam cũng đã là một phần của tôi (...). Bất cứ người lính nào từ trận chiến trở về đều biết rằng sẽ đến lúc khói thuốc súng sẽ tan biến và cát bụi sẽ lắng xuống. Chính trong khoảnh khắc nhìn rộng lượng đó, cuộc chiến thực sự kết thúc".
Cuộc gặp giữa các nhà văn - cựu binh
Năm 1989, ông Hà Huy Thông là Tùy viên báo chí tại Phái đoàn thường trực Việt Nam bên cạnh Liên hợp quốc tại New York (Hoa Kỳ). Ông kể: Khi đó, cán bộ ngoại giao chỉ được phép di chuyển trong bán kính 25 dặm. Nhận được lời mời dự cuộc gặp giữa các nhà văn - cựu binh hai nước tại Trung tâm William Joiner (Boston, bang Massachusetts), cách New York 200 dặm - ông Thông phải xin phép đặc biệt. Với sự hỗ trợ của ông Michael Marine, Phó phòng Việt Nam - Lào - Campuchia (Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ), ông được chấp thuận rời New York. Ông Thông tham dự với vai trò hỗ trợ tiếp xúc trong bối cảnh còn nhiều khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa và tâm lý.
![]() |
| Cuộc gặp mặt của các nhà văn, cựu binh Việt Nam - Hoa Kỳ tại Boston (bang Masachussettes, Hoa Kỳ), ngày 03/8/1989. (Ảnh: Ông Hà Huy Thông cung cấp) |
"Những phút đầu còn gượng gạo, nhưng sự bộc trực và chân thành đã kéo mọi người lại gần. Nhiều cựu binh Hoa Kỳ kể rằng khi đến các làng quê yên bình, nhìn thấy sự thân thiện của người dân, họ tự hỏi vì sao phải cầm súng. Có người lau mắt khi nhớ lại những khoảnh khắc sinh tử. Là người từng khoác áo lính, tôi xúc động khi nghe họ nói về hòa giải và sự bao dung sau mấy chục năm.
Nhiều câu hỏi được đặt ra: Vì sao phải ra chiến trường? Vì sao nhiều sinh viên, thanh niên phải xa gia đình? Không ít người cho rằng chính sách cấm vận lúc đó kéo dài sự chia rẽ giữa hai bên.
Cuối cùng, cả hai phía đều đồng thuận rằng đối thoại giữa cựu binh, nhà văn, giới học giả sẽ góp phần hàn gắn vết thương chiến tranh. Sau này, một số cựu binh tham dự tiếp tục gắn bó với Việt Nam, thậm chí lập gia đình với phụ nữ Việt Nam", ông Thông thuật lại.
![]() |
| Hàng đầu, từ phải sang: Ông Hà Huy Thông, nhà văn Nguyễn Quang Sáng, nhà văn Lê Lựu tại nhà nhà thơ, cựu binh Hoa Kỳ Kevin Bowen, ngày 03/8/1989. (Ảnh: Ông Hà Huy Thông cung cấp) |
Ông cho biết thêm: "Nhiều người Mỹ nói với chúng tôi rằng, một khi các cựu thù ngồi lại, cùng nói "Chúng ta hãy làm bạn", thì cũng có nghĩa hai nước hãy hòa giải. Quả thực, họ đã trở thành những người thúc đẩy mạnh mẽ nhất cho quá trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ".
![]() |
| Các nhà văn, cựu binh Việt Nam - Hoa Kỳ chụp ảnh lưu niệm tại Boston (bang Masachussettes, Hoa Kỳ), ngày 02/8/1989. (Ảnh: Ông Hà Huy Thông cung cấp) |
Ngày 21/11/1991, hai nước tiến hành vòng đàm phán đầu tiên về bình thường hoá quan hệ. Theo ông Hà Huy Thông, không phải ngẫu nhiên khi tuyên bố bãi bỏ cấm vận (03/02/1994) hay khi tuyên bố bình thường hoá quan hệ với Việt Nam (ngày 11/7/1995), Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton đã mời nhiều nghị sĩ, quan chức từng là cựu binh trong chiến tranh ở Việt Nam như John Kerry, John McCain, John Vesey - những người đi đầu thúc đẩy hoà giải - cùng có mặt tại các sự kiện đó. Cũng không phải ngẫu nhiên ông Pete Peterson - cựu binh, hạ nghị sĩ Hoa Kỳ - được Tổng thống Clinton cử làm Đại sứ đầu tiên của Hoa Kỳ tại Việt Nam.
![]() |
| Cựu Hạ nghị sĩ Pete Peteson (ở giữa) chúc Tết Nguyên đán Đại biện lâm thời Hà Huy Thông và phu nhân tại Đại sứ quán Việt Nam mới khai trương tại Washington, D.C. tháng 02/1997 trước khi nhận nhiệm vụ Đại sứ Hoa Kỳ đầu tiên ở Hà Nội. (Ảnh: Ông Hà Huy Thông cung cấp) |
Nguồn: https://thoidai.com.vn/bai-1-di-san-nhan-dao-mo-duong-tuong-lai-217733.html











Bình luận (0)