Không gian văn hóa Tây Nguyên và tác động của việc sắp xếp lại đơn vị hành chính hiện nay
Tây Nguyên là mảnh đất hùng vỹ, tươi đẹp, địa hình cao nguyên là chủ yếu, nằm ở phía Tây của dãy Trường Sơn, bao gồm các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng(1). Vùng đất này là nơi hội tụ đầy đủ 54 dân tộc, bao gồm 12 dân tộc thiểu số tại chỗ, người Kinh và đồng bào các dân tộc di cư từ nơi khác đến. Văn hóa vùng Tây Nguyên được định hình bởi sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố vật thể và phi vật thể, tạo nên một không gian văn hóa đặc sắc, độc đáo. Văn hóa vật thể nổi bật là nhà rông, nhà dài, nơi diễn ra lễ hội cộng đồng; văn hóa phi vật thể có thể kể đến luật tục, sử thi, truyện cổ... Nhiều sử thi nổi tiếng như Đam San, Xing Nhã, Đam Di,... không chỉ là tài sản văn hóa quý giá, mà còn phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan, giá trị quan trong lịch sử cộng đồng và cách tư duy tộc người. Đặc biệt, không gian văn hóa cồng chiêng được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là “Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại”, có sức hấp dẫn đặc biệt ở sự độc đáo trong kỹ thuật diễn tấu và là biểu tượng cho sự tổng hòa giá trị văn hóa đa dạng, niềm tự hào của các dân tộc nơi đây, di sản quý giá của dân tộc Việt Nam, góp phần vào sự đa dạng văn hóa dân tộc.
Trong bối cảnh cải cách hành chính và tối ưu hóa bộ máy nhà nước, Việt Nam triển khai sắp xếp lại đơn vị hành chính nhằm tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị, nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, thể hiện quyết tâm “thực hiện quyết liệt cuộc cách mạng nhằm xây dựng hệ thống chính trị thật sự tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới”(2). Ở vùng Tây Nguyên, quyết định sắp xếp lại đơn vị hành chính được Đảng và Nhà nước quan tâm không chỉ trên các mặt diện tích và dân số, kết nối kinh tế và giao thông, bảo vệ an ninh, quốc phòng..., mà còn chú ý đến yếu tố đặc thù về địa lý, văn hóa và dân tộc. Theo đó, Nghị quyết số 60-NQ/TW, ngày 12-4-2025, Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII quyết định hợp nhất: tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Phú Yên (trung tâm chính trị - hành chính đặt tại tỉnh Đắk Lắk); tỉnh Gia Lai và tỉnh Bình Định (trung tâm hành chính đặt tại tỉnh Bình Định); tỉnh Kon Tum và tỉnh Quảng Ngãi (trung tâm hành chính đặt tại tỉnh Quảng Ngãi); tỉnh Lâm Đồng, tỉnh Đắk Nông và tỉnh Bình Thuận (trung tâm chính trị - hành chính đặt tại tỉnh Lâm Đồng).
Sự thay đổi này không chỉ là bước cải cách hành chính nhằm tinh gọn bộ máy, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, mà còn mở ra nhiều cơ hội, tạo động lực mới để bảo tồn và phát huy không gian văn hóa độc đáo của vùng, cụ thể: 1- Tăng nguồn lực bảo tồn văn hóa: Hợp nhất tập trung ngân sách, đầu tư vào trùng tu không gian cồng chiêng, bảo tàng dân tộc học, làng văn hóa truyền thống. Thu hút chuyên gia dân tộc học, khảo cổ, lập viện nghiên cứu tại tỉnh mới; 2- Quy hoạch văn hóa đồng bộ: Quy hoạch không gian văn hóa đồng bào dân tộc thiểu số, trung tâm văn hóa đa chức năng, xây dựng mạng lưới liên tỉnh để chia sẻ nguồn lực, phát triển sản phẩm thủ công, âm nhạc, thời trang vùng Tây Nguyên; 3- Thúc đẩy du lịch văn hóa: Kết hợp bản sắc vùng với các tỉnh duyên hải, mở các tour, tuyến du lịch trải nghiệm văn hóa các dân tộc thiểu số, kết nối điểm đến các vùng biển, như Phú Yên, Bình Định, góp phần đạt mục tiêu 15% - 20% doanh thu du lịch văn hóa; 4- Tăng cường hợp tác quốc tế: Tỉnh mới có quy mô lớn là chất xúc tác thu hút UNESCO, tổ chức quốc tế, trường đại học nước ngoài, hỗ trợ số hóa di sản cồng chiêng, nghiên cứu ngôn ngữ dân tộc thiểu số; 5- Bảo vệ bản sắc đồng bào dân tộc thiểu số: Thực hiện Nghị quyết 60-NQ/TW, quá trình sáp nhập phải lấy ý kiến nhân dân là cử tri ở địa phương liên quan(3), trong đó có đồng bào dân tộc thiểu số, tạo cơ hội để họ tham gia hoạch định chính sách văn hóa, bảo đảm bản sắc, truyền thống được bảo tồn.
Tuy nhiên, công cuộc tinh gọn bộ máy, sắp xếp lại đơn vị hành chính cũng có thể đặt ra một số vấn đề về phương diện quản lý nhà nước và xã hội: 1- Đô thị hóa lấn át không gian văn hóa: Việc sắp xếp lại đơn vị hành chính sẽ thúc đẩy quá trình đô thị hóa vùng Tây Nguyên diễn ra mạnh mẽ, dự án phát triển hạ tầng liên tỉnh làm gia tăng áp lực lên không gian văn hóa truyền thống, ảnh hưởng đến lễ hội và nghi thức truyền thống vốn gắn liền với công trình kiến trúc đặc thù; 2- Sinh kế văn hóa bị ảnh hưởng: Cộng đồng dân tộc thiểu số tại Tây Nguyên phụ thuộc vào một số hoạt động văn hóa, như dệt thổ cẩm, biểu diễn cồng chiêng, sản xuất rượu cần,... để duy trì sinh kế. Sau sắp xếp lại đơn vị hành chính có thể ưu tiên các ngành công nghiệp và dịch vụ, từ đó giảm thiểu sự hỗ trợ cho sinh kế văn hóa truyền thống, ảnh hưởng đến thu nhập của đồng bào; 3- Yêu cầu mới về quản lý văn hóa, xã hội: Giao thoa văn hóa có thể thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau, nhưng cũng đưa đến một số vấn đề cần quan tâm, trước hết là về phát sinh yêu cầu mới trong quản lý nhà nước và xã hội; 4- Hoạt động quản lý, quy hoạch và bảo tồn di sản trên địa bàn hành chính mới gặp nhiều khó khăn, vướng mắc: Sắp xếp lại đơn vị hành chính sẽ dẫn đến đơn vị hành chính có diện tích và dân số lớn hơn, gây khó khăn trong quản lý di sản; nguồn lực cán bộ hiểu biết sâu về văn hóa tại địa phương có thể suy giảm khi cơ quan văn hóa được hợp nhất; việc quy hoạch bảo tồn di sản văn hóa trên địa bàn hành chính mới có thể gặp khó khăn bởi đặc thù văn hóa của các địa phương.
Những vấn đề cấp bách trong bảo tồn không gian văn hóa Tây Nguyên
Thứ nhất, nguy cơ thiếu quy hoạch tổng thể, đồng bộ. Trong bối cảnh vùng Tây Nguyên đang trải qua những chuyển biến mạnh mẽ về cải cách bộ máy chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội sẽ thiếu vắng của một quy hoạch tổng thể mang tính dài hạn, liên ngành trở thành vấn đề lớn. Nhiều địa phương chưa tích hợp yếu tố bảo tồn văn hóa vào quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, khiến kế hoạch, chiến lược phát triển đô thị, du lịch và công nghiệp xung đột với mục tiêu bảo tồn không gian văn hóa. Quy hoạch đô thị ở nhiều nơi chưa tính đến cấu trúc văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, phá vỡ không gian sinh hoạt cộng đồng, như nhà rông, nhà dài, bến nước (vốn là trụ cột của đời sống tinh thần các dân tộc). Hơn nữa, sự tham gia của cộng đồng địa phương ở các khâu xây dựng quy hoạch còn hạn chế, dẫn đến chính sách thiếu tính khả thi, bền vững.
Thứ hai, nguy cơ mai một đối với di sản văn hóa phi vật thể. Thực tiễn cho thấy, văn hóa vùng Tây Nguyên không bị giới hạn bởi bản đồ hành chính, nhưng chịu tác động trực tiếp từ cơ chế, chính sách, bộ máy quản lý và năng lực tổ chức thực thi của chính quyền địa phương. Mặc dù đây là nơi có kho tàng văn hóa phi vật thể đồ sộ, phong phú, nổi bật nhất là “Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên”, sử thi, lễ hội dân gian và nghi lễ truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ..., nhưng đang phải đối mặt với nguy cơ mai một. Nguyên nhân chủ yếu đến từ sự suy giảm số lượng nghệ nhân (người có khả năng thực hành và truyền dạy giá trị văn hóa truyền thống); một bộ phận lớn giới trẻ ngày càng xa rời văn hóa truyền thống, chịu ảnh hưởng sâu sắc từ lối sống đô thị và văn hóa đại chúng. Việc thiếu chương trình nghiên cứu, sưu tầm, tư liệu hóa và chuyển giao tri thức văn hóa cho thế hệ sau đã dẫn đến sự đứt gãy trong dòng chảy văn hóa; nhiều lễ hội truyền thống bị cắt giảm hoặc biến đổi về nội dung, mất dần tính thiêng liêng, trở nên hình thức, phục vụ cho mục đích thương mại(4).
Thứ ba, áp lực đô thị hóa và phát triển kinh tế. Tốc độ đô thị hóa và phát triển kinh tế tại vùng Tây Nguyên thời gian qua đã mang lại nhiều thay đổi lớn về kết cấu hạ tầng, nhưng cũng kéo theo không ít hệ lụy đối với không gian văn hóa. Việc mở rộng khu dân cư, công trình công cộng và tuyến giao thông mới vô hình trung làm cảnh quan tự nhiên và không gian linh thiêng gắn với đời sống tín ngưỡng của đồng bào bị thay đổi rõ rệt. Cơ cấu đất đai được sử dụng ưu tiên phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế khiến nhiều di sản bị xâm lấn hoặc phải di dời; tình trạng thương mại hóa sản phẩm văn hóa thiếu kiểm soát, nhất là lĩnh vực du lịch cũng làm biến dạng nhiều giá trị văn hóa nguyên gốc, tạo ra sản phẩm “giả truyền thống” phục vụ nhu cầu thị trường, nhưng làm xói mòn bản sắc văn hóa tại chỗ(5).
Thứ tư, thiếu cơ chế và nguồn lực hiệu quả. Công tác bảo tồn văn hóa ở vùng Tây Nguyên lâu nay phải đối mặt với nhiều khó khăn về cơ chế và nguồn lực, đặc biệt trong triển khai dự án bảo tồn dài hạn. Một bộ phận đội ngũ cán bộ chuyên trách trong lĩnh vực văn hóa thiếu về số lượng và yếu về chuyên môn; cơ sở vật chất phục vụ công tác lưu trữ, trưng bày và tổ chức sự kiện văn hóa còn nghèo nàn, thiếu đồng bộ. Sự phối hợp giữa các cấp chính quyền, ban, ngành và cộng đồng xã hội còn rời rạc, thiếu tính thống nhất trong hành động; cơ chế khuyến khích đồng bào và tổ chức xã hội tham gia vào bảo tồn chưa được thiết kế, tổ chức hiệu quả, thiếu tính minh bạch và bền vững(6).
Thứ năm, nhận thức và ý thức bảo tồn văn hóa có nơi, có lúc còn hạn chế. Trong thời gian dài, văn hóa đồng bào các dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên chưa được đánh giá đúng mức trong chiến lược phát triển của địa phương. Một số cán bộ quản lý còn có tư tưởng, quan niệm việc bảo tồn văn hóa là nhiệm vụ thứ yếu, không tác động trực tiếp đến tình hình phát triển kinh tế. Trong khi đó, một bộ phận người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ thiếu hiểu biết và có tâm lý “ngại” gắn bó, gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống. Thực tế, việc nâng cao nhận thức cộng đồng và trách nhiệm của các cấp chính quyền là yếu tố then chốt để bảo vệ và phát huy bền vững không gian văn hóa Tây Nguyên trong bối cảnh chuyển đổi mạnh mẽ hiện nay(7).
Nhiệm vụ cấp bách để bảo tồn không gian văn hóa vùng Tây Nguyên trong bối cảnh sắp xếp lại đơn vị hành chính hiện nay
Thứ nhất, chú trọng xây dựng hệ thống dữ liệu và thực hiện quy hoạch tổng thể trên cơ sở triển khai, bám sát chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa phục vụ công cuộc phát triển(8). Tại vùng Tây Nguyên, không gian văn hóa không chỉ là các di sản vật thể, mà còn bao gồm di sản phi vật thể, do đó nhiệm vụ cấp bách là tập trung xây dựng và thực hiện quy hoạch tổng thể bảo tồn không gian văn hóa, lồng ghép vào quy hoạch kinh tế - xã hội và đô thị. Trước hết, kịp thời hệ thống hóa cơ sở dữ liệu toàn diện về không gian văn hóa vùng Tây Nguyên, bao gồm bản đồ phân bố di sản, báo cáo hiện trạng và danh sách yếu tố rủi ro; tổng kiểm kê di sản vật thể và phi vật thể, như nhà rông, nhà dài, cồng chiêng, sử thi, nghệ nhân, âm nhạc, ngôn ngữ... thông qua Hệ thống thông tin địa lý (GIS) và các chương trình khảo sát. Quy định khu vực bảo tồn trong quy hoạch đô thị; đồng thời, tính toán thành lập cơ quan quản lý văn hóa vùng và hội đồng tư vấn với già làng và chuyên gia trong xây dựng quy hoạch.
Cùng với đó, quy hoạch tổng thể bảo tồn văn hóa vùng Tây Nguyên phải có sự tích hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đô thị và du lịch; xác định rõ các vùng bảo tồn văn hóa trọng điểm, như thôn, buôn, làng truyền thống, không gian lễ hội và di sản văn hóa phi vật thể. Tổ chức hội thảo, tọa đàm, công trình khoa học có sự tham vấn cộng đồng để thu thập ý kiến người dân, đặc biệt là nghệ nhân, người cao tuổi, bảo đảm quy hoạch phản ánh đúng bản sắc văn hóa và nhu cầu thực tế. Mặt khác, quan tâm, bảo vệ không gian văn hóa trong quá trình đô thị hóa và phát triển du lịch bền vững; tăng cường đầu tư quản lý, tăng ngân sách bảo tồn từ 2% - 5%, thu hút, khuyến khích sự đồng hành, ủng hộ của doanh nghiệp... Tiếp tục thực hiện hiệu quả công tác tuyên truyền và giáo dục thông qua tích hợp nội dung mới về giáo dục văn hóa vào chương trình phổ thông và đại học tại khu vực; tận dụng phương tiện truyền thông trong quảng bá giá trị văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ; thường xuyên tổ chức ngày hội văn hóa vùng Tây Nguyên, qua đó, nâng cao nhận thức cộng đồng và thu hút sự chú ý của công chúng.
Thứ hai, ưu tiên bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể. Theo Công ước của UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể năm 2003, bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể bao gồm “các thực hành, biểu đạt, tri thức, và kỹ năng được cộng đồng công nhận là một phần của bản sắc văn hóa”. Theo đó, các cấp, ngành cần tăng cường công tác nghiên cứu, sưu tầm, số hóa di sản văn hóa phi vật thể nhằm ghi nhận và lưu trữ đầy đủ các di sản văn hóa phi vật thể vùng Tây Nguyên, như cồng chiêng, sử thi, ngôn ngữ và phong tục, để ngăn chặn nguy cơ mai một; kết hợp với viện nghiên cứu phân tích và phân loại di sản; tạo điều kiện, tăng cường hỗ trợ, công nhận vai trò để nghệ nhân, người nắm giữ di sản yên tâm truyền dạy di sản cho thế hệ trẻ, bảo đảm sự tiếp nối của thực hành văn hóa. Xây dựng chương trình giáo dục, quảng bá, tổ chức sự kiện văn hóa nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng, giá trị của di sản văn hóa phi vật thể; khôi phục và duy trì lễ hội truyền thống, sinh hoạt văn hóa cộng đồng; phát triển mô hình du lịch văn hóa... góp phần bảo đảm giá trị văn hóa được gìn giữ trong bối cảnh sắp xếp lại đơn vị hành chính.
Thứ ba, kiểm soát quá trình đô thị hóa và phát triển kinh tế theo hướng bền vững. Thực tế, sự mở rộng hạ tầng giao thông, khu công nghiệp và đô thị mới dẫn đến một số tác động không tránh khỏi đến các vùng đất thiêng, nơi tổ chức nghi lễ, thậm chí phá vỡ cấu trúc truyền thống của làng, bản đồng bào dân tộc thiểu số. Do đó, cần thiết lập cơ chế kiểm soát chặt chẽ quy hoạch và xây dựng kết cấu hạ tầng, đặc biệt là tại khu vực có giá trị văn hóa đặc thù; tích hợp yếu tố di sản văn hóa vào quy hoạch đô thị và phát triển vùng, tiến hành đánh giá tác động văn hóa trước khi triển khai dự án lớn; xây dựng “vùng đệm văn hóa” quanh khu vực buôn, làng, không gian lễ hội hoặc cảnh quan thiêng liêng để hạn chế tác động từ quá trình đô thị hóa. Chú trọng kế thừa và bảo tồn giá trị văn hóa thông qua thực hành sống động trong đời sống kinh tế đương đại, đặc biệt quan tâm phát triển du lịch văn hóa bền vững, tạo sinh kế cho đồng bào, trong đó thúc đẩy hình thức du lịch dựa vào cộng đồng (nơi người dân tại chỗ, đặc biệt là dân tộc thiểu số đóng vai trò chủ đạo trong giới thiệu văn hóa, tổ chức và hưởng lợi từ hoạt động du lịch, thay vì để doanh nghiệp du lịch thương mại hóa thiếu kiểm soát). Xây dựng chính sách hỗ trợ phát triển ngành, nghề thủ công truyền thống và hoạt động kinh tế dựa trên nền tảng văn hóa truyền thống, như dệt thổ cẩm, làm nhạc cụ, sản xuất rượu cần, chế tác tượng nhà mồ...
Thứ tư, tăng cường đầu tư và hoàn thiện cơ chế bảo tồn. Việc bảo tồn văn hóa chỉ có thể đạt được hiệu quả thực chất khi được đặt trong một thiết chế chính sách rõ ràng, ổn định và được bảo đảm bằng nguồn lực tài chính thích đáng. Hiện nay, ngân sách phục vụ công tác bảo tồn văn hóa ở nhiều địa phương còn thấp, chủ yếu mang tính hỗ trợ sự kiện, chưa là nguồn lực tạo nền tảng dài hạn cho phát triển di sản; do đó, cần bố trí đủ nguồn lực tài chính, không chỉ từ ngân sách nhà nước, mà còn thông qua xã hội hóa nguồn lực một cách minh bạch, hiệu quả, đồng thời đẩy mạnh thể chế hóa hoạt động xây dựng quỹ bảo tồn văn hóa cộng đồng, hợp tác công - tư. Xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành, liên cấp thiết thực, bảo đảm sự thống nhất trong quản lý, hạn chế tình trạng chồng chéo giữa các cấp chính quyền và cơ quan chức năng; thiết lập cơ chế phối hợp vùng, đặc biệt trong bối cảnh địa giới và tính liên kết của các cộng đồng dân tộc thay đổi sau sắp xếp lại đơn vị hành chính.
Cần khuyến khích sự tham gia của thực thể ngoài nhà nước, như doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ, tổ chức tôn giáo và truyền thông trong công cuộc bảo tồn không gian văn hóa vùng Tây Nguyên, góp phần đa dạng hóa cách tiếp cận và gia tăng tính bền vững cho chương trình bảo tồn. Đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ trong bảo tồn và quảng bá văn hóa, số hóa tư liệu văn hóa truyền thống, xây dựng cơ sở dữ liệu mở về di sản, phục dựng không gian văn hóa bằng công nghệ số, sử dụng mạng xã hội để lan tỏa giá trị di sản văn hóa...
Thứ năm, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cộng đồng. Việc bảo tồn không gian văn hóa vùng Tây Nguyên sẽ không thể thành công nếu thiếu đi sự đồng thuận, chủ động và tích cực tham gia, ủng hộ từ chính đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ. Vì vậy, cần đặt trọng tâm vào việc nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cộng đồng thông qua việc tuyên truyền, giáo dục về giá trị văn hóa truyền thống, không chỉ trong các thiết chế văn hóa, mà còn thông qua hệ thống giáo dục chính quy, truyền thông đại chúng và mạng xã hội, góp phần củng cố ý thức cộng đồng về di sản, đặc biệt trong thế hệ trẻ đang chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa. Tăng cường đào tạo đội ngũ nhân lực có chuyên môn sâu, phù hợp với từng lĩnh vực cụ thể; phát huy vai trò của các cộng đồng dân tộc thiểu số trong tham gia mô hình đồng quản lý di sản, nhóm truyền dạy văn hóa phi chính thức và sáng kiến văn hóa cộng đồng do người dân khởi xướng và vận hành. Đổi mới, tận dụng giá trị thiết chế văn hóa cộng đồng, như nhà dài, nhà rông, nhà cộng đồng..., coi đây không chỉ là biểu tượng vật chất, mà còn là không gian truyền dạy, biểu đạt và thực hành văn hóa. Cần có chính sách hỗ trợ duy tu, phục dựng và khai thác hiệu quả thiết chế văn hóa, hỗ trợ nghệ nhân... như một phần trong chiến lược bảo tồn tổng thể không gian văn hóa truyền thống.
Một số đề xuất, kiến nghị thời gian tới
Đối với các ban, bộ, ngành Trung ương:
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nghiên cứu, xây dựng chiến lược, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, đề án quốc gia về bảo tồn và phát huy giá trị không gian văn hóa vùng Tây Nguyên. Chủ trì việc kiểm kê, nghiên cứu, đánh giá, xếp hạng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của vùng sau quá trình sắp xếp lại đơn vị hành chính; hướng dẫn, giám sát việc thực hiện công tác bảo tồn, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho ngành văn hóa. Xây dựng sản phẩm du lịch văn hóa đặc trưng và hướng dẫn, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển du lịch văn hóa bền vững.
Bộ Tài chính chịu trách nhiệm trong việc lồng ghép mục tiêu bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa vùng Tây Nguyên vào quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương sau sắp xếp lại đơn vị hành chính; ưu tiên bố trí vốn đầu tư công cho dự án bảo tồn và phát huy văn hóa đã được phê duyệt; xây dựng cơ chế khuyến khích đầu tư từ nguồn lực xã hội vào lĩnh vực văn hóa. Bảo đảm nguồn lực tài chính theo chương trình, đề án đã được phê duyệt cho công tác bảo tồn và phát huy văn hóa; hướng dẫn cơ chế quản lý và sử dụng kinh phí hiệu quả cho các hoạt động văn hóa. Bộ Dân tộc và Tôn giáo tích cực tham mưu cho Chính phủ về chính sách đặc thù liên quan đến bảo tồn và phát huy văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số; phối hợp cùng Bộ Giáo dục và Đào tạo và cơ quan, đơn vị liên quan bảo tồn tiếng nói, chữ viết và văn hóa truyền thống trong hệ thống giáo dục cộng đồng cũng như trong quá trình theo dõi, đánh giá việc thực hiện chính sách dân tộc ở lĩnh vực văn hóa.
Đối với chính quyền các cấp và cộng đồng
Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân các tỉnh vùng Tây Nguyên chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc triển khai chủ trương, chính sách của Trung ương về bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa trên địa bàn; ban hành các quy định cụ thể, phù hợp, bố trí ngân sách hợp lý phục vụ hoạt động văn hóa; tăng cường vai trò của các sở, ban, ngành cấp tỉnh, đồng thời tạo điều kiện và hỗ trợ cộng đồng tham gia vào công tác bảo tồn văn hóa. Việc bảo tồn không gian văn hóa Tây Nguyên đòi hỏi một cách tiếp cận toàn diện, kết hợp giữa giải pháp cụ thể, chính sách đồng bộ và sự hợp tác chặt chẽ giữa Nhà nước, cộng đồng, tổ chức xã hội và chuyên gia.
Không gian văn hóa vùng Tây Nguyên không chỉ là di sản quý báu của đồng bào dân tộc thiểu số, mà còn là tài sản vô giá của nền văn hóa Việt Nam. Từ những ngôi nhà rông, nhà dài truyền thống đến nghi lễ, lễ hội, âm nhạc cồng chiêng,... đều phản ánh, thể hiện một nền văn hóa đặc sắc gắn với đời sống của con người và thiên nhiên. Không gian này cần được gìn giữ như một “báu vật sống”. Bối cảnh nhiều biến động của quá trình sắp xếp lại đơn vị hành chính hiện nay cùng sự phát triển của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế có thể làm lu mờ hoặc phá vỡ tính toàn vẹn của hệ thống thiết chế văn hóa truyền thống, do đó bảo tồn và phát huy giá trị không gian văn hóa Tây Nguyên trở thành nhiệm vụ cấp thiết hơn bao giờ hết. Đây không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước, của chính quyền địa phương, mà còn phải có sự chung tay của toàn xã hội, cộng đồng, nhà nghiên cứu, tổ chức văn hóa, đến từng cá nhân. Chỉ khi chúng ta cùng chung tay, đồng lòng, không gian văn hóa vùng Tây Nguyên mới được bảo tồn và phát huy một cách bền vững, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ hội nhập và phát triển, kiến tạo nền tảng vững chắc để “xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu”(9) trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc./.
-----
(1) Việc xác định các tỉnh ở đây theo mốc thời gian trước 1-7-2025
2) GS. TS. Tô Lâm: “Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả”, Tạp chí Cộng sản, số 1.050 (tháng 11-2024), tr. 12
(3) Xem: Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019)
(4) Xem: Nguyễn Thu Hằng: “Giữ gìn văn hóa truyền thống các dân tộc Tây Nguyên”, Báo Nhân Dân điện tử, ngày 26-4-2025, https://nhandan.vn/giu-gin-van-hoa-truyen-thong-cac-dan-toc-tay-nguyen-post875585.html
(5) Xem: Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia: Bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể các dân tộc Tây Nguyên, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2019
(6) Xem: Tống Anh Đào: “Thực trạng và giải pháp bảo tồn cồng chiêng Tây Nguyên”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 34(3), 2017, tr. 47 - 58
(7) Xem: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Báo cáo kết quả bảo tồn văn hóa Tây Nguyên giai đoạn 2015 - 2020, Hà Nội, 2021
(8) Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 16-7-1998, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”; Nghị quyết số 162/2024/QH15, ngày 27-11-2024, của Quốc hội, về “Phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025 - 2035”...
(9) GS. TS. Tô Lâm: “Một số nhận thức cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Tạp chí Cộng sản, số 1.050 (tháng 11-2024), tr. 3
Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/1111302/bao-ton-khong-gian-van-hoa-vung-tay-nguyen-va-yeu-cau-dat-ra-sau-sap-xep-lai-don-vi-hanh-chinh.aspx
Bình luận (0)