Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh gợi mở cách tiếp cận về phát triển kinh tế tư nhân trong giai đoạn mới
Sinh thời, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã đề cập các hình thức sở hữu, quan hệ sở hữu và sự hiện diện của hình thức sở hữu, quan hệ sở hữu qua các thời kỳ phát triển gắn với sự hình thành các hình thái kinh tế - xã hội. Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, các ông chỉ rõ: “Việc xóa bỏ những quan hệ sở hữu đã tồn tại trước kia không phải là một cái gì đặc trưng vốn có của chủ nghĩa cộng sản”(1); “Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác”(2).
V. I. Lê-nin, khi cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, Nhà nước Xô-viết ra đời, để thích ứng với điều kiện cụ thể của nước Nga Xô-viết trong bối cảnh mới, vượt qua khó khăn của nền kinh tế, đã chủ trương thực hiện “Chính sách kinh tế mới” (NEP). Đặc trưng của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được V. I. Lê-nin chỉ ra, đó là sự tồn tại đan xen nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, trong đó có sự tồn tại của kinh tế tư nhân dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Chỉ sau một thời gian ngắn, việc thực hiện NEP đã giúp kinh tế - xã hội nước Nga Xô-viết được cải thiện nhanh chóng, giúp nước Nga Xô-viết kịp thời tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Cũng cần nhận thức rằng, sở hữu tư nhân hay kinh tế tư nhân ra đời từ rất sớm và không đồng nhất với chủ nghĩa tư bản. Mỗi thành phần kinh tế có bản chất và những quy luật hoạt động riêng, dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất, có khả năng tái sản xuất một cách tương đối độc lập lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tương ứng. Theo đó, cơ sở của kinh tế tư nhân xuất phát từ hình thức sở hữu tư nhân. Trong lịch sử các hình thái kinh tế - xã hội, sở hữu tư nhân xuất hiện sau khi phương thức sản xuất cộng sản nguyên thủy tan rã, phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ ra đời. Chủ nghĩa tư bản có đặc trưng cơ bản là gắn liền với sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và kinh tế tư bản tư nhân.
Sinh thời, trong tác phẩm “Thường thức chính trị” (tháng 9-1953), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến sự tồn tại của các loại hình kinh tế khác nhau, trong đó có kinh tế tư nhân trong công cuộc xây dựng kinh tế, kiến thiết nước nhà và chủ trương phát triển đồng bộ các thành phần kinh tế: “những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước nhà”; “Người có tiệm buôn, người có xưởng thủ công hoặc xưởng công nghệ nhỏ thì bị hàng ngoại hóa đè lên, không phát triển được... Những nhà tư sản dân tộc cũng bị đế quốc và phong kiến đè nén ngăn trở, không có đường ra, doanh nghiệp của họ rất bấp bênh và thường dễ phá sản”(3). Ngay từ những ngày đầu lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành nhiều văn bản ghi nhận sự hiện hữu của thành phần kinh tế tư nhân, như Điều thứ nhất Sắc lệnh số 48, ngày 9-10-1945, của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quy định: “Trong khi chờ đợi một đạo luật định rõ địa vị pháp luật của các công ty hay các hãng kỹ nghệ hoặc thương mại ngoại quốc ở Việt Nam, các công ty hay các hãng ngoại quốc hiện có, được phép tiếp tục công việc doanh nghiệp như cũ”; Khoản II Sắc lệnh số 43, ngày 10-10-1945, của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quy định: “Quỹ đó thâu gồm các tiền trợ cấp của Chính phủ hay của các địa phương, và có pháp nhân tư cách để thân nhận những động sản hoặc bất động sản của tư nhân quyên cho”; Điều 1 Sắc lệnh số 6/SL, ngày 20-1-1950, của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quy định: “Công ty công tư hợp doanh là một công ty vô danh trong ấy Chính phủ hợp vốn với tư nhân để kinh doanh theo kế hoạch kinh tế chung của Chính phủ”; Điều 3 Sắc lệnh số 119, ngày 10-10-1952, của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quy định: “Giúp đỡ và hướng dẫn việc in và phát hành của các nhà xuất bản tư nhân”...
Như vậy, sự hiện diện của hình thức sở hữu, quan hệ sở hữu qua các thời kỳ phát triển gắn với sự hình thành của hình thái kinh tế - xã hội, cũng như sự tồn tại của các loại hình kinh tế khác nhau và vai trò của các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân trong công cuộc xây dựng kinh tế, kiến thiết đất nước đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ. Góc nhìn và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế tư nhân đã giúp chúng ta định hình cách thức để tạo sự phát triển mới, trong đó cùng với sự hiện diện và phát triển của các thành phần kinh tế khác, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng.
Theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có thể thấy rõ phát triển kinh tế tư nhân không phải là “tư nhân hóa nền kinh tế quốc dân”, mà là cách thức “khơi thông mọi nguồn lực”, phát huy tối đa sức mạnh của các thành phần kinh tế. Điều này hoàn toàn hợp lý; bởi lẽ, nguồn lực của kinh tế tư nhân không phải chỉ ở doanh nghiệp, mà còn nằm trong nhân dân. Điều này được Đảng ta kiên định qua nhiều nhiệm kỳ đại hội và gần đây được Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ: “Một nền kinh tế cường thịnh không thể chỉ dựa vào khu vực nhà nước hay đầu tư nước ngoài, mà phải dựa vào nội lực là khu vực tư nhân vững mạnh, đóng vai trò tiên phong trong đổi mới và phát triển đất nước. Nền kinh tế quốc gia chỉ thực sự cường thịnh khi toàn dân tham gia lao động tạo ra của cải vật chất, một xã hội mà người người, nhà nhà, ai cũng hăng say lao động”(4).
Quá trình hoàn thiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế tư nhân
Trong thời kỳ đổi mới, phát triển kinh tế nhiều thành phần được coi là cách thức hữu hiệu để từng bước tháo gỡ hạn chế, bất cập của nền kinh tế Việt Nam; tạo điều kiện giải phóng tối đa mọi nguồn lực, phát huy vai trò của các thành phần kinh tế, hình thức sở hữu. Trong các thành phần kinh tế đó, kinh tế tư nhân được Đảng ta rất coi trọng.
Vào đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, sau một thời gian dài duy trì hai thành phần kinh tế là nhà nước và tập thể, nền kinh tế đất nước ta đã rơi vào tình cảnh trì trệ; bởi lẽ, “trong khi nguồn vốn của Nhà nước và của tập thể còn eo hẹp, thì nguồn vốn còn dư trong nhân dân hầu như chỉ đưa vào tiêu dùng hoặc cất giữ và mua hàng tích trữ”(5). Từ nhận thức đó, Đảng ta chỉ rõ cần “Xóa bỏ những thành kiến thiên lệch trong sự đánh giá và đối xử với người lao động thuộc các thành phần kinh tế khác nhau..., tạo nên môi trường tâm lý xã hội thuận lợi cho việc thực hiện chính sách sử dụng và cải tạo nền kinh tế nhiều thành phần”(6). Đây là quan điểm định hướng rất quan trọng trong việc thay đổi chiến lược phát triển kinh tế kể từ Đại hội VI của Đảng. Quan điểm này đã mở đường cho chủ trương phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (năm 1988), Đảng ta tiếp tục khẳng định phát triển kinh tế nhiều thành phần là đường lối nhất quán của kinh tế Việt Nam trong thời kỳ quá độ; đồng thời, khẳng định kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế địa bàn, quy mô, trong ngành, nghề mà pháp luật không cấm. Tại Đại hội VII (năm 1991), Đảng ta đã cụ thể hơn về cơ chế quản lý cho kinh tế tư nhân: “Kinh tế tư nhân được phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, theo sự quản lý, hướng dẫn của Nhà nước”(7). Sau 10 năm đất nước tiến hành đổi mới (năm 1996), tại Đại hội VIII, Đảng ta đã ghi nhận vị trí, vai trò, đóng góp của kinh tế tư nhân đối với sự phát triển của đất nước. Đảng ta nhấn mạnh: “Kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dài”(8).
Tại Hội nghị Trung ương 5 khóa IX (tháng 3-2002), lần đầu tiên Đảng ta ban hành một nghị quyết chuyên đề về phát triển kinh tế tư nhân - Nghị quyết số 14-NQ/TW “Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân” (sau đây gọi là Nghị quyết số 14). Nghị quyết khẳng định: “Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế”(9).
Đại hội XII đánh dấu một bước tiến đột phá trong quan điểm của Đảng ta về phát triển kinh tế tư nhân, khẳng định: “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế”(10). Điều này cho thấy sự ghi nhận của Đảng về vai trò ngày càng to lớn của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế quốc dân. Để hiện thực hóa chủ trương của Đại hội XII về phát triển kinh tế tư nhân, tại Hội nghị Trung ương 5 (khóa XII), Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 3-6-2017, “Về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (sau đây gọi là Nghị quyết số 10).
Đặc biệt, ngày 4-5-2025, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW “Về phát triển kinh tế tư nhân” (sau đây gọi là Nghị quyết số 68), nêu rõ, sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân nước ta đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết đặt mục tiêu đến năm 2030, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia; là lực lượng tiên phong trong phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Có thể nhận thấy, trong thời kỳ đổi mới, đường lối, chủ trương của Đảng về kinh tế tư nhân từng bước được bổ sung, phát triển, ngày càng hoàn thiện hơn, phản ánh kịp thời những đóng góp to lớn của kinh tế tư nhân.
Đường lối, chủ trương của Đảng không chỉ khẳng định vai trò, đóng góp to lớn của kinh tế tư nhân, mà còn định hướng nâng cao vai trò, vị thế của khu vực kinh tế tư nhân với các giải pháp cụ thể, hiện thực, bảo đảm sự đồng bộ với các thành phần kinh tế khác, sự phối hợp, kết hợp hài hòa giữa Nhà nước và các thành phần kinh tế, trong đó vẫn bảo đảm vai trò kiến tạo của Nhà nước, như tăng cường kết nối giữa các doanh nghiệp khu vực tư nhân, doanh nghiệp khu vực tư nhân với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; mở rộng sự tham gia của doanh nghiệp khu vực tư nhân vào các dự án quan trọng quốc gia; đa dạng hóa, nâng cao hiệu quả các hình thức hợp tác giữa Nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân. Nghị quyết số 68 cũng chỉ rõ việc tôn vinh, biểu dương, khen thưởng doanh nhân, doanh nghiệp điển hình, tiên tiến, kinh doanh hiệu quả, bền vững, thực hiện tốt trách nhiệm xã hội, tham gia tích cực hoạt động vì cộng đồng...
Trong bài viết “Phát triển kinh tế tư nhân - Đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng”, Tổng Bí thư Tô Lâm tiếp tục khẳng định: “Kinh tế tư nhân phải là lực lượng tiên phong trong kỷ nguyên mới”, “Kinh tế tư nhân cần phấn đấu trở thành lực lượng chủ lực, đi đầu trong ứng dụng công nghệ và đổi mới, sáng tạo”.
Quan điểm của Tổng Bí thư khi định hướng cho kinh tế tư nhân cần giữ vai trò “tiên phong”, “chủ lực”, “đi đầu” trong một số ngành, một số lĩnh vực liên quan đến khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo chính là sự bổ sung, phát triển quan điểm của Đảng ta về vai trò của kinh tế tư nhân trong kỷ nguyên phát triển mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; là sự cụ thể hóa, phát triển lên một tầm cao mới chủ trương phát triển kinh tế tư nhân; giúp kinh tế tư nhân đồng hành cùng kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể - hai thành phần kinh tế tạo thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; đẩy mạnh và đa dạng hóa nguồn vốn cho kinh tế tư nhân, tăng cường tính kết nối giữa kinh tế tư nhân với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; từng bước hình thành, huy động đội ngũ doanh nhân xuất sắc, có tâm, có tầm tham gia quản trị đất nước, góp phần bảo đảm thực hiện chủ trương xã hội hóa gắn với nhiều lĩnh vực quan trọng, như cung ứng dịch vụ y tế, giáo dục chất lượng cao, phát triển công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí, gắn kết cơ sở nghiên cứu với thực tiễn, góp phần thương mại hóa kết quả nghiên cứu...
Sự phát triển và vai trò ngày càng to lớn của kinh tế tư nhân đối với sự phát triển đất nước gắn với quá trình hoàn thiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
Đảng, Nhà nước ta đã chú trọng phát triển kinh tế tư nhân thông qua nhiều quan điểm định hướng, biện pháp, chính sách bảo đảm sự hài hòa, tính đồng bộ với các thành phần kinh tế khác. Ngay từ Nghị quyết số 14 được ban hành hơn 20 năm về trước, Đảng ta đã chủ trương phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế. Từ Nghị quyết số 14, chủ trương phát triển kinh tế tư nhân ngày càng được bổ sung, hoàn thiện: từ việc ghi nhận nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ trong Nghị quyết số 10, đến việc ghi nhận cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân giữ vai trò nòng cốt để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả, đưa đất nước thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, vươn lên phát triển thịnh vượng. Đây là sự phát triển về mặt lý luận quan điểm về phát triển kinh tế tư nhân, bảo đảm sự phát huy cao nhất nội lực, đồng thời kết hợp giữa nội lực và ngoại lực trong Nghị quyết số 68-NQ/TW.
Một trong những điểm nổi bật và được thực hiện hiệu quả thời gian qua là từ chủ trương khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước, có đủ khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu trong Nghị quyết số 10, khuyến khích kinh tế tư nhân tham gia góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước khi cổ phần hóa hoặc Nhà nước thoái vốn, chúng ta đã thành công trong việc phát triển doanh nghiệp khu vực tư nhân, tạo nền tảng cho sự ra đời của chủ trương mở rộng sự tham gia của doanh nghiệp khu vực tư nhân vào các dự án quan trọng quốc gia; Nhà nước chủ động có chính sách đặt hàng, đấu thầu hạn chế hoặc chỉ định thầu hoặc có chính sách ưu đãi khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân tham gia cùng Nhà nước vào các lĩnh vực chiến lược, các dự án, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học trọng điểm, quan trọng quốc gia (như đường sắt tốc độ cao, đường sắt đô thị, công nghiệp mũi nhọn, hạ tầng năng lượng, hạ tầng số, giao thông xanh, công nghiệp quốc phòng, an ninh...), những nhiệm vụ khẩn cấp, cấp bách.
Có thể thấy rõ sự phát triển nhanh chóng và đóng góp to lớn của kinh tế tư nhân đối với những thành tựu chung mà đất nước đạt được qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới. Trong bài viết “Phát triển kinh tế tư nhân - Đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng”, Tổng Bí thư Tô Lâm đã so sánh sự phát triển của kinh tế tư nhân thời kỳ đầu đổi mới với những năm gần đây để minh chứng cho sự phát triển nhanh chóng và đóng góp to lớn của kinh tế tư nhân đối với những thành tựu chung mà đất nước đạt được qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới. Đó là: “Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới, kinh tế tư nhân chỉ giữ vai trò thứ yếu, nền kinh tế chủ yếu dựa vào khu vực nhà nước và vốn đầu tư nước ngoài (FDI), thì trong hai thập niên trở lại đây,... khu vực kinh tế này đã trỗi dậy mạnh mẽ, trở thành một trong những trụ cột quan trọng hàng đầu của nền kinh tế và ngày càng thể hiện là động lực đặc biệt quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia. Với gần một triệu doanh nghiệp, khoảng 5 triệu hộ kinh doanh cá thể, khu vực kinh tế tư nhân hiện đóng góp khoảng 51% GDP, hơn 30% ngân sách nhà nước, tạo ra hơn 40 triệu việc làm, chiếm hơn 82% tổng số lao động trong nền kinh tế, đóng góp gần 60% vốn đầu tư toàn xã hội”(11). Đây là nhận định xuất phát từ cơ sở tổng kết thực tiễn, cùng với sự so sánh, đối chiếu diện mạo của nền kinh tế Việt Nam dưới tác động của kinh tế tư nhân. Tổng Bí thư cũng chỉ rõ, kinh tế tư nhân không chỉ tạo ra thay đổi đáng kể đối với diện mạo của nền kinh tế quốc gia, mà còn tạo ra nhiều việc làm, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, làm xuất hiện một thế hệ chủ thể sản xuất, kinh doanh mới - thế hệ doanh nhân Việt Nam không chỉ có nhiều dấu ấn to lớn với thị trường trong nước, mà còn vươn mình mạnh mẽ ra thế giới.
Coi kinh tế tư nhân là “đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng” tiếp tục là sự bổ sung, phát triển quan điểm của Đảng ta về vai trò ngày càng to lớn của kinh tế tư nhân trong kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; là sự bổ sung, phát triển lý luận về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó có sự phát triển đồng bộ, toàn diện đối với tất cả thành phần kinh tế, chú trọng việc thúc đẩy tăng trưởng, đồng thời bảo đảm hài hòa với bảo đảm môi trường và phát triển bền vững.
Tổng Bí thư Tô Lâm cũng chỉ rõ, mặc dù còn có hạn chế, “điểm nghẽn” và “rào cản” nhất định đối với phát triển kinh tế tư nhân, nhưng với những kết quả to lớn mà kinh tế tư nhân đã mang lại, chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước - một Việt Nam thịnh vượng; đồng thời, tiếp cho chúng ta niềm tin, sức mạnh vào chủ trương đúng đắn của Đảng, nâng cao sức đề kháng, tinh thần cảnh giác trước các luận điệu sai trái của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị: “Chúng ta đang sống trong thời khắc lịch sử, chứng kiến sự phát triển chưa từng có của khoa học - công nghệ và môi trường quốc tế đầy biến động, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, nơi mà cơ hội và thách thức luôn song hành. Nhưng với bản lĩnh kiên cường, với ý chí quyết tâm và khát vọng cháy bỏng, Việt Nam hoàn toàn có thể làm nên kỳ tích mới trong phát triển kinh tế - xã hội! Một nền kinh tế vững mạnh đang hình thành, một thế hệ doanh nhân Việt Nam bản lĩnh và đổi mới sáng tạo, tràn đầy nhiệt huyết kinh doanh và lòng yêu nước, đang viết tiếp câu chuyện thành công và một tương lai rực rỡ, một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa sánh vai cùng các cường quốc năm châu như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đang dần trở thành hiện thực trong tương lai gần”(12)./.
-------------
(1), (2) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, tr. 99, 103 - 104
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 8, tr. 267
(4) GS, TS Tô Lâm: “Phát triển kinh tế tư nhân - Đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng”, Tạp chí Cộng sản, số 1.059, tháng 4-2025, tr. 5
(5), (6), (7), (8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (Khóa VI, VII, VIII, IX, X), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, p. I, tr. 52, 58 - 59, 333, 681
(9) Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 57 - 58
(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 25
(11), (12) GS, TS Tô Lâm: “Phát triển kinh tế tư nhân - Đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng”, Tạp chí Cộng sản, số 1.059, tháng 4-2025, tr. 3 – 4,8
Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/thuc-tien-kinh-nghiem1/-/2018/1111402/phat-trien-kinh-te-tu-nhan---chu-truong-thuc-day-khoi-nghiep%2C-doi-moi-sang-tao%2C-dong-luc-cho-mot-viet-nam-thinh-vuong.aspx
Bình luận (0)