Cổng làng trở thành biểu tượng giản dị mà thẳm sâu từ lâu đã in dấu trong văn chương Việt như hình tượng của ký ức, nguồn cội và sự bất biến giữa dòng đời đổi thay.

Giữa mạch cảm xúc ấy, bài thơ “Cổng làng tuổi thơ” của nhà thơ Nguyễn Đăng Độ xuất hiện trong vẻ đẹp đầy mộc mạc mà day dứt. Ở đó, tác giả nhẹ nhàng trở về với chính “ngưỡng cửa” ký ức của mình với từng bậc thềm, ngọn gió, sắc hương miên man hơi thở một thời đã xa. Trong nhịp thơ trầm lắng, trong sáng, nhà thơ Nguyễn Đăng Độ đã khơi dậy nguồn cảm thức “hồi cố” rất Việt thể hiện qua nỗi thương nhớ cội nguồn. Đó vừa là tình quê, cũng là cách để con người đối thoại với chính mình sau bao năm phiêu bạt.

 Nhà thơ Nguyễn Đăng Độ.

Bốn câu thơ đầu của bài thơ mở ra không gian ký ức đằm sâu và lặng lẽ. Cảm giác thời gian như ngừng lại giữa khoảnh khắc người con tha hương trở về đối diện với chính quê hương mình. Câu thơ đầu giản dị như chỉ là lời kể, nhưng thực ra là tâm thế thiêng liêng: đứng trước cổng làng, người về như đứng trước ranh giới của hai thế giới - bên này là hiện tại nhiều dâu bể, bên kia là miền ký ức trong trẻo đã xa.

Nhà thơ Nguyễn Đăng Độ không miêu tả quê hương bằng những nét rực rỡ, mà chọn cách để cảm xúc thấm qua từng hình ảnh rất nhỏ: cổng làng - tuổi thơ - hơi sương. Đó là thứ ngôn ngữ của ký ức, không trực tiếp mà thấm dần vào người đọc như tiếng gió quê khẽ qua rặng tre. Đọc kỹ, ta sẽ nhận ra sự vận động tinh tế của cảm xúc từ hiện tại của hành động đến độ sâu của tâm tưởng rồi độ xa của khắc khoải và cuối cùng là độ lặng của ký ức. Đó là một chu trình cảm xúc tròn đầy, mở ra, lắng xuống rồi ngân vang.

Nếu bốn câu mở đầu là bước chân chạm vào ngưỡng ký ức thì những khổ thơ tiếp theo chính là hành trình đi sâu vào cõi nhớ. Nhà thơ đối thoại với chính đất quê và với chính mình. “Quê nghèo cất giữ lời thương/ Tuổi thơ lặng giữa sắc hương ân tình”. Hai câu thơ ngắn, mà mở ra cả một triết lý sống của người Việt. “Quê nghèo” nhưng không nghèo tình nghĩa. Trái lại, đó là vành nôi yêu thương, nơi từng ngọn gió, hạt cát cũng biết giữ gìn những điều con người gửi lại. Cụm từ “cất giữ lời thương” đã nhân hóa quê hương như người mẹ lặng lẽ lưu trữ trong lòng mình bao nỗi nhớ, bao lời yêu mà người đi đã quên nói. Ở đây, Nguyễn Đăng Độ gói trọn “tấm lòng của đất” thinh lặng mà ôm trọn mọi ân nghĩa cuộc đời. Câu kế tiếp mang vẻ đẹp của sự trong trẻo. Tuổi thơ “lặng”, nghĩa là đã hóa thành tĩnh, thành quá khứ, nhưng vẫn “giữa sắc hương ân tình” như đóa hoa vẫn tỏa hương trong tâm tưởng người đi xa. Giữa bao xô bồ của đời sống, ký ức ấy vẫn là vùng sáng tinh khôi, là cội nguồn của cảm xúc nhân hậu.

“Lắng nghe từ đất yên bình/Ngỡ như tiếng vọng tự tình ngày thơ”. Ở hai câu này, nhịp thơ chậm lại, giọng thơ như cúi xuống. Tác giả không “nghe” bằng tai, mà “lắng nghe từ đất”, tức là nghe bằng linh cảm, bằng trái tim đã thấm nỗi quê. Tiếng vọng ấy không hẳn là âm thanh cụ thể mà là “tự tình ngày thơ”, là tiếng trò chuyện giữa con người và quá khứ. Nguyễn Đăng Độ có một cái “nghe” rất riêng, cái nghe của người từng sống sâu với đất, từng rời đi và biết rằng quê hương không bao giờ im lặng. “Lối mòn vắng bóng người chờ/ Đâu thời áo trắng hoa mơ nắng vàng”. Hai câu này thơ trở thành đỉnh điểm của nỗi nhớ. Hình ảnh “lối mòn vắng bóng” như vệt xước trong ký ức. Từng con đường nhỏ từng in dấu chân tuổi trẻ, nay chỉ còn gió và cỏ mọc. Câu thơ “Đâu thời áo trắng hoa mơ nắng vàng” vang lên như một tiếng thở dài, vừa hỏi, vừa tiếc, vừa ngậm ngùi. Các thi ảnh “áo trắng - hoa - nắng vàng” hòa quyện tạo nên gam màu hoài niệm. Đó là thời thanh xuân giản dị mà tươi sáng giờ chỉ còn trong giấc mơ.

Giọng thơ thủ thỉ, man mác. “Độ ấy đến giờ” - khoảng thời gian dài đến mức ký ức đã phủ bụi. Nhưng cổng làng “vẫn đợi chờ” như người mẹ đợi con, như đất đợi mưa. Trong cái nhìn của thi sĩ, quê hương không hề thay đổi; chính sự chờ đợi ấy làm cho quê hương trở nên thiêng liêng và bất tử. “Vẫn còn đây bậc thềm nhà/ Cây chùa trèo dọc đời ta thuở nào”. Hai câu kết làm nên khoảng lặng giàu biểu tượng. “Bậc thềm nhà” là nơi bước chân đầu đời, nơi chia ly và đoàn tụ. Đó là ranh giới giữa trong - ngoài, giữa đi - về, giữa quá khứ - hiện tại. Hình ảnh “cây chùa trèo dọc đời ta thuở nào” gợi ra nét thơ hiếm gặp. mhình ảnh vừa cụ thể vừa mang tính linh hồn (trèo dọc đời ta). Có lẽ không chỉ cây chùa, mà chính tuổi thơ, ký ức, và bóng dáng quê hương đã “trèo dọc đời ta” tựa mạch máu ấm, chảy suốt cuộc đời người đi xa.

Một trong những nét cuốn hút đặc biệt của bài thơ là nhạc tính và thẩm mỹ ngôn từ được kết hợp theo lối tự nhiên, dung dị mà hài hòa. Tác giả viết giàu tiết tấu, giàu nhịp điệu. Mỗi khổ thơ như một đoạn nhạc trầm - bổng - ngân - vang, gợi nhớ đến âm hưởng dân ca miền Trung, nơi tiếng thơ hòa cùng tiếng gió, tiếng trống hội, tiếng bước chân trở về làng. Cách gieo vần liền mạch, mềm mại (“thương - hương”, “chờ - thơ”, “vàng - làng”) tạo nên sự uyển chuyển của mạch cảm xúc, khiến người đọc dễ dàng cảm nhận bài thơ như bản nhạc êm đềm đang ngân lên từ lòng đất mẹ.

Ở góc nhìn thẩm mỹ, bài thơ giống như bức tranh với gam màu chủ đạo là nâu, vàng và lam - màu của đất, ký ức, hoàng hôn trên lũy tre xưa. Hình ảnh “cỏ mờ hơi sương”, “hoa mơ nắng vàng”, “ngọn gió mơ màng hồn xưa” đều mang tính thị giác cao, có thể dựng thành cảnh trong một bài hát hay một thước phim về quê hương. Bởi lẽ đó, “Cổng làng tuổi thơ” có thể phổ nhạc, trở thành ca khúc da diết, gợi nỗi nhớ quê trong lòng những người xa xứ.

Tổng thể bài thơ là bản hòa ca của nhớ thương và chiêm nghiệm, tác giả viết bằng ngôn từ dung dị mà thấm đẫm nhân tình. Nguyễn Đăng Độ không cố gắng tạo dáng câu chữ, mà để cảm xúc tự tuôn chảy. Chính sự chân thật ấy khiến “Cổng làng tuổi thơ” trở nên bền lâu trong lòng người đọc. Ở đó, mỗi người đều có thể nhận ra cổng làng của riêng mình với một phần tâm hồn vẫn đứng đợi, vẫn reo lên mỗi khi có cơn gió mang mùi cố hương.

Từ đầu đến cuối, “Cổng làng tuổi thơ” chất chứa hoài niệm, cảm tưởng mỗi con chữ đều thấm đẫm hương đất, vị đời và lòng nhân hậu. “Cổng làng” ẩn dụ cho bản sắc dân tộc, lưu giữ linh hồn của những mùa xưa, đạo lý “uống nước nhớ nguồn” và tình người mộc mạc mà vững bền. Đến với bài thơ, bắt gặp thấp thoáng một người trở về, và gặp caer cả quê hương đang mở cánh cửa chờ đợi những đứa con phiêu bạt nhận ra rằng mọi vinh hoa đều hư ảo, chỉ có cội nguồn là thật. Tác phẩm là hồi âm của ký ức, vừa mang vẻ đẹp mộc mạc của âm hưởng dân gian, vừa thấm vị trầm tư của người từng đi qua nỗi đời. Nhà thơ đã viết bằng trái tim thấm hương đất, để từ đó, mỗi câu thơ vừa là tiếng lòng, vừa là tiếng nói của bao thế hệ những người dù đi xa đến đâu, vẫn mang theo trong lòng hình bóng cổng làng tuổi thơ, như mang theo chính phần tâm hồn của mình.

THANH KHÊ

* Mời bạn đọc vào chuyên mục  xem các tin, bài liên quan. 

Nguồn: https://www.qdnd.vn/van-hoa/doi-song/cong-lang-tuoi-tho-noi-tro-ve-ky-uc-907544