Từ thực tiễn giảng dạy và nghiên cứu tại trường đại học, TS Nguyễn Viết Hương, Giải thưởng Khoa học công nghệ Quả Cầu Vàng, Gương mặt trẻ Việt Nam tiêu biểu 2024 nhận thấy, khát vọng chiếm lĩnh tri thức, tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chấp nhận rủi ro để đổi mới sáng tạo đang nở rộ trong một bộ phận lớn thanh niên.
Tuy vậy, để những khát vọng ấy kết tinh thành kết quả rõ ràng, trở thành tài sản tri thức và công nghệ của quốc gia, cần có một hệ sinh thái đồng bộ: Chính sách nhất quán, cơ chế thông thoáng, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, hạ tầng nghiên cứu hiện đại và đặc biệt là sự hình thành văn hóa khoa học, văn hóa liêm chính học thuật.
Góp ý vào dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng, TS. Nguyễn Viết Hương đề xuất một số chủ trương và giải pháp nhằm tạo bước phát triển đột phá về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia từ góc nhìn của một nhà khoa học trẻ đang trực tiếp tham gia đào tạo thế hệ kế cận.
Phát triển nhân lực theo các tầng lớp
Để tạo nên bước phát triển đột phá trong khoa học, công nghệ, theo TS Nguyễn Viết Hương cần triển khai chiến lược nhân lực theo cấu trúc nhiều tầng, bảo đảm kế thừa, bổ sung, tương hỗ; gắn kết chặt chẽ giáo dục phổ thông, giáo dục đại học, hệ thống nghiên cứu và khu vực doanh nghiệp. Trong đó khả năng dẫn dắt của Nhóm tinh hoa, chiến lược tầm quốc gia đóng vai trò rất quan trọng.
Với tầng chuyên gia đầu ngành, đẳng cấp quốc tế, cần chủ động mời gọi các tổng công trình sư, nhà khoa học hàng đầu thế giới (không nhất thiết là người Việt) thông qua các chương trình đặc biệt với nhiệm vụ trọng tâm là tư vấn lộ trình phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam, con người và lợi thế địa chính trị, lợi thế của đất nước ta. Tiếp theo là các chuyên gia đồng chủ trì phòng thí nghiệm, dẫn dắt nhóm nghiên cứu mũi nhọn, chuyển giao công nghệ nguồn, cùng xây dựng chuẩn mực liêm chính học thuật và văn hóa nghiên cứu hiện đại. Cơ chế hợp đồng linh hoạt (ngắn-trung hạn, bán thời gian) sẽ tăng tính khả thi và hiệu quả ngân sách.
Với tầng trí thức Việt Nam ở nước ngoài cần hình thành mạng lưới "Nhà khoa học Việt Nam toàn cầu", áp dụng cơ chế "hồi hương bán phần": Hướng dẫn nghiên cứu, đồng hướng dẫn nghiên cứu sinh, đồng chủ nhiệm đề tài, chia sẻ dữ liệu và hạ tầng qua các thỏa thuận hợp tác. Đồng thời cần chế độ đãi ngộ theo kết quả, bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ và công bố chung, qua đó đưa tri thức quốc tế về Việt Nam bằng con đường nhanh nhất, chi phí hiệu quả nhất.
Với tầng đào tạo trong nước, cần dựng các trung tâm đào tạo tiến sĩ - hậu tiến sĩ gắn với phòng thí nghiệm hiện đại, ưu tiên các lĩnh vực mũi nhọn: Vật liệu mới, bán dẫn - vi điện tử, năng lượng sạch, công nghệ sinh học, y sinh, an toàn, an ninh mạng, trí tuệ nhân tạo, công nghệ lượng tử... Thiết kế chương trình đào tạo theo chuẩn quốc tế, chú trọng kiến thức nền tảng - cơ bản, nhưng tăng tỷ trọng thực hành thí nghiệm, dự án liên ngành và kết nối doanh nghiệp. Đặc biệt, tạo cơ chế "fast-track funding" cho nhóm trẻ xuất sắc để họ có thể nhanh chóng tạo kết quả nổi bật.
Với tầng học sinh, sinh viên, cần khơi dậy đam mê khoa học từ phổ thông; phát triển các câu lạc bộ STEM, cuộc thi nghiên cứu khoa học học sinh, kỳ thực tập phòng thí nghiệm mở. Đại học cũng nên có một số ngày mở cửa để đón các trẻ em, học sinh đến trải nghiệm khoa học. Cùng với đó, tư duy khoa học cần được gieo mầm từ sớm: Dạy cách đặt câu hỏi, hình thành tinh thần phản biện, khích lệ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.
Ở các địa phương cần có cơ chế xây dựng các Bảo tàng khoa học công nghệ, thư viện miễn phí, (thay vì đầu tư quá nhiều các trung tâm giải trí). Có như vậy, trẻ em Việt Nam ta mới yêu quý quê hương và có động lực. Để chiến lược đa tầng phát huy hiệu quả, chúng ta cần cơ chế tài chính ổn định, dài hạn cho các quỹ tài năng trẻ, học bổng chiến lược theo lĩnh vực ưu tiên, kèm cam kết phục vụ và cơ chế sử dụng nhân lực sau đào tạo minh bạch, cạnh tranh. Đây là cách biến “dân số vàng” thành “vàng tri thức”.
Phát triển bền vững văn hoá khoa học và trách nhiệm xã hội
Theo tinh thần của UNESCO, phát triển bền vững phải được hiểu một cách toàn diện: Phát triển kinh tế đi đôi với phát triển con người, phát triển văn hóa và phát triển cách vận hành xã hội. Khoa học, công nghệ chỉ thực sự có ý nghĩa khi phục vụ con người và vì con người. TS Nguyễn Viết Hương cho rằng, không thể đánh đổi môi trường sống, sức khỏe cộng đồng và tương lai của các thế hệ sau để lấy những lợi ích ngắn hạn.
Ở góc độ công nghệ cần ưu tiên các chương trình năng lượng tái tạo (điện mặt trời, điện gió, thủy triều), hạt nhân an toàn hiện đại, lưới điện thông minh, lưu trữ năng lượng bền vững; thúc đẩy hóa học xanh, vật liệu sinh học, quy trình sản xuất sạch hơn; phát triển kinh tế tuần hoàn, giảm phát thải và tăng hiệu quả sử dụng tài nguyên.
Ở góc độ xã hội cần phải xây dựng văn hóa khoa học: Tôn trọng sự thật, đề cao đạo đức nghiên cứu, minh bạch dữ liệu và kết quả; bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đi đôi với chia sẻ tri thức có trách nhiệm. Những nỗ lực nghiên cứu, chuyển giao trong nước về công nghệ lắng đọng lớp nguyên tử ở áp suất khí quyển, vật liệu chức năng nhiệt độ thấp, xử lý bề mặt thân thiện môi trường… đã cho thấy hoàn toàn có thể vừa đổi mới sáng tạo, vừa tối ưu hóa năng lượng và chi phí, góp phần thúc đẩy sản xuất xanh, thông minh ngay tại Việt Nam.
Chuyển giao công nghệ và hợp tác quốc tế
TS Nguyễn Viết Hương cho biết, một hạn chế phổ biến là hoạt động nghiên cứu còn manh mún, phân tán, thiếu tính hội tụ vào các lĩnh vực chiến lược. Do đó cần xác định và kiên định theo đuổi các cụm chủ đề ưu tiên cấp quốc gia trong 10-15 năm tới; xây dựng trung tâm đổi mới sáng tạo liên kết “đại học, viện nghiên cứu, doanh nghiệp, nhà nước”, đồng tài trợ theo tỉ lệ rõ ràng và cơ chế chia sẻ sở hữu trí tuệ, doanh thu minh bạch.
“Hợp tác quốc tế là chìa khóa để rút ngắn khoảng cách công nghệ, cần khôi phục và mở rộng các chương trình học bổng quốc gia quy mô lớn (mô hình 322, 911 nâng cấp), đặt mục tiêu 5 năm đào tạo 10.000 tiến sĩ hoặc hơn, ở các lĩnh vực mũi nhọn, kết nối thực tập phòng thí nghiệm trọng điểm thế giới; triển khai cơ chế đồng hướng dẫn, đồng chủ nhiệm đề tài, đồng sở hữu bằng sáng chế. Những hạt nhân này sẽ là “đội quân xung kích tri thức” cho giai đoạn 10-20 năm tiếp theo của đất nước. Tôi cho rằng đây là cách nhanh chóng để bắt kịp thế giới khi đội ngũ thanh niên của chúng ta có cơ hội học tập và nghiên cứu, tiếp cận những công nghệ mới nhất ở nước ngoài”, TS Nguyễn Viết Hương chia sẻ.
Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh yêu cầu xây dựng thế hệ thanh niên “bản lĩnh, tiến bộ, xuất sắc về trí tuệ và đậm đà bản sắc văn hóa”. Đây là định hướng chiến lược để kết hợp hài hòa giữa hội nhập và giữ gìn bản sắc, giữa tri thức hiện đại và giá trị truyền thống, giữa năng lực chuyên môn và trách nhiệm xã hội của người trí thức trẻ Việt Nam.
“Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia không chỉ là bài toán kỹ thuật, mà là lựa chọn chiến lược về tương lai. Tương lai đó sẽ do chính thế hệ trẻ hôm nay kiến tạo. Muốn vậy, chúng ta cần một tầm nhìn dài hạn, những quyết sách dũng cảm và một hệ sinh thái nuôi dưỡng tài năng bền bỉ, liêm chính.
Việc rèn luyện “Tâm trong - Trí sáng - Hoài bão lớn”, vì mục tiêu đưa Việt Nam ta phát triển hùng cường, không chỉ là lời nhắn gửi của các thế hệ đi trước, mà là ngọn đuốc soi đường cho thanh niên Việt Nam thời kỳ mới. Với niềm tin và khát vọng, với khoa học, công nghệ và văn hóa, với đổi mới sáng tạo và tinh thần phụng sự, thế hệ trẻ chúng ta hoàn toàn có thể đưa Việt Nam bứt phá, sớm trở thành quốc gia phát triển thịnh vượng, nhân văn và bền vững vào giữa thế kỷ XXI”, TS Nguyễn Viết Hương chia sẻ.
Nguồn: https://baotintuc.vn/thoi-su/gop-y-du-thao-van-kien-dai-hoi-xiv-kien-tao-vang-tri-thuc-tu-chien-luoc-nhan-luc-da-tang-20251116111115908.htm






Bình luận (0)