Công nghệ chiến lược được kỳ vọng tạo ra sự phát triển đột phá, có giá trị gia tăng cao, tạo nền tảng cho các ngành công nghiệp khác, giúp đưa Việt Nam lên tuyến đầu về khoa học-công nghệ. Để khát vọng ấy trở thành hiện thực, yếu tố quyết định chính là phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Nhiều doanh nghiệp trong nước đã bắt tay triển khai các sản phẩm công nghệ chiến lược, khẳng định năng lực nội sinh, tạo nền tảng cho năng lực cạnh tranh mới. Điều cần thiết lúc này là đặt mục tiêu hợp lý, theo từng giai đoạn, và có sự đồng hành của Nhà nước trong đầu tư hạ tầng nghiên cứu, hỗ trợ tài chính và hoàn thiện cơ chế để bảo đảm mục tiêu hình thành các ngành công nghiệp chiến lược của đất nước.
Bước ngoặt tư duy chính sách
Trên cơ sở định hướng tại Nghị quyết số 57-NQ/TW, Bộ Khoa học và Công nghệ đã tham mưu Chính phủ trình Quốc hội thông qua Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo năm 2025, trong đó, công nghệ chiến lược trở thành định hướng trọng tâm để Nhà nước tập trung nguồn lực, ban hành chính sách và triển khai các chương trình phát triển lâu dài.
Cùng với đó, Quyết định số 1131 của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục 11 nhóm công nghệ chiến lược, cùng 35 sản phẩm công nghệ chiến lược là các bài toán lớn của đất nước đặt ra cho các doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học… giải quyết.
Việc thể chế hóa công nghệ chiến lược đã đánh dấu bước chuyển quan trọng của Việt Nam từ một quốc gia chủ yếu sử dụng công nghệ lõi sang làm chủ các công nghệ chiến lược có tác động đến tăng trưởng kinh tế và an ninh quốc gia.
Qua khảo sát của Bộ Khoa học và Công nghệ, các doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học từ trước đến nay đã chủ động nghiên cứu, phát triển công nghệ chiến lược và hiện đã có một số sản phẩm đi đúng hướng, thí dụ tại Tập đoàn Viettel, Tập đoàn công nghệ CMC, Tập đoàn Phenikaa, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Bách khoa Hà Nội…
Với quan điểm phải có sản phẩm rõ ràng, khả năng thương mại hóa cao, trên cơ sở ý kiến của các bộ, ngành, địa phương, vừa qua, Bộ Khoa học và Công nghệ đã đề xuất danh sách các sản phẩm công nghệ chiến lược triển khai trong năm 2025 và ba sản phẩm công nghệ chiến lược ưu tiên triển khai ngay, gồm: Mô hình ngôn ngữ lớn và trợ lý ảo tiếng Việt; hệ thống và thiết bị mạng 5G; AI camera xử lý tại biên.
Việc chọn một số sản phẩm làm trước nhằm thử nghiệm, rút kinh nghiệm và hoàn thiện các mô hình chính sách. Đây là những lĩnh vực đang “nóng” trên toàn cầu, cấp thiết cho quá trình hiện đại hóa của Việt Nam; không chỉ tạo ra những công nghệ cốt lõi quyết định năng lực cạnh tranh quốc gia mà còn mở ra cơ hội để Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Các chuyên gia công nghệ cho rằng, để rút ngắn khoảng cách với các cường quốc công nghệ trong phát triển các sản phẩm công nghệ chiến lược nêu trên cần sự đầu tư nghiêm túc, lâu dài và đồng bộ về nhân lực, tài chính, cũng như hạ tầng nghiên cứu.
Các chuyên gia công nghệ cho rằng, để rút ngắn khoảng cách với các cường quốc công nghệ trong phát triển các sản phẩm công nghệ chiến lược nêu trên cần sự đầu tư nghiêm túc, lâu dài và đồng bộ về nhân lực, tài chính, cũng như hạ tầng nghiên cứu.
Theo Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Hoàng Minh, chủ trương của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn tới là tập trung vào tăng trưởng hai con số, tăng trưởng chất lượng cao, tăng trưởng dựa trên khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, do đó, khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số phải tập trung vào giải quyết các bài toán lớn của đất nước.
Bộ Khoa học và Công nghệ đặt mục tiêu đến năm 2027 làm chủ được ít nhất 20 sản phẩm công nghệ chiến lược và đến năm 2035 hơn 25 sản phẩm và quan trọng hơn là tiến tới phát triển các ngành công nghiệp chiến lược, trong đó tỷ trọng đóng góp của các ngành công nghiệp chiến lược đối với GDP là từ 15-20%.
Để đạt các mục tiêu đó, Nhà nước sẽ chuyển trọng tâm phát triển công nghệ về phía doanh nghiệp, không phân biệt nhà nước hay tư nhân. Những doanh nghiệp lớn, cùng các tổ chức nghiên cứu có năng lực và uy tín, sẽ được giao phát triển các sản phẩm, công nghiệp và công nghệ chiến lược. Bởi chính doanh nghiệp hiểu rõ thị trường cần gì, và đó cũng là động lực, đồng thời là áp lực để biến công nghệ thành sản phẩm có giá trị.
Chung quanh doanh nghiệp sẽ hình thành hệ sinh thái gắn kết viện nghiên cứu, trường đại học, cơ quan quản lý để tạo sức mạnh tổng hợp làm chủ công nghệ. Nghiên cứu cơ bản cũng tập trung vào hỗ trợ cho phát triển các công nghệ chiến lược, các sản phẩm chiến lược.
Doanh nghiệp khẳng định năng lực nội sinh
Hiện nhiều doanh nghiệp trong nước đã bắt tay triển khai, bước đầu khẳng định vai trò tiên phong với những sản phẩm công nghệ chiến lược.
Ở khu vực doanh nghiệp nhà nước, Tập đoàn Viettel đã chủ động phát triển 10 trên tổng số 11 nhóm công nghệ chiến lược. Các kết quả này mới chỉ là bước khởi đầu nhưng đã khẳng định năng lực nội sinh đang hình thành, tạo niềm tin cho việc giải những “bài toán lớn” của đất nước.
Lãnh đạo Tập đoàn Viettel cho biết, Tập đoàn xác định công nghệ mạng di động thế hệ sau 5G/6G là một trong những công nghệ chiến lược được ưu tiên đầu tư hàng đầu để đóng góp quan trọng vào phát triển hạ tầng quốc gia.
Mạng 5G với tốc độ vượt trội, độ trễ thấp và khả năng kết nối hàng triệu thiết bị đầu cuối sẽ là nền tảng quan trọng thúc đẩy chuyển đổi số, đóng góp đáng kể vào thực hiện các chiến lược quốc gia về phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số.
Thời gian tới, Tập đoàn Viettel sẽ tiếp tục đầu tư mạnh mẽ phát triển công nghệ mạng 5G-Advanced/6G, bảo đảm song hành cùng thế giới với lộ trình: Năm 2027, thương mại hóa thiết bị 5G-Advanced, triển khai theo mô hình mở, ảo hóa và có nhiều tính năng ưu việt hơn so với 5G hiện tại; năm 2028-2030 sản xuất thử nghiệm thiết bị 6G trên mạng thực tế.
Chuỗi dự án chiến lược của Tập đoàn công nghệ CMC là Trung tâm Dữ liệu siêu quy mô và Công ty CMC Open AI mới đây cũng là sự đóng góp của doanh nghiệp trong cung cấp năng lực tính toán, huấn luyện và vận hành mô hình ngôn ngữ lớn cũng như tạo môi trường mở cho thử nghiệm và thương mại hóa ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong thời gian tới.
Các chính sách, chương trình và dự án bước đầu đã hình thành, nhưng vấn đề cốt lõi nằm ở nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây chính là “điểm nghẽn” lớn nhất, cũng là chìa khóa quyết định việc rút ngắn khoảng cách công nghệ của Việt Nam so với thế giới.
Bám sát 11 nhóm công nghệ chiến lược, Tập đoàn Phenikaa và Đại học Phenikaa đang dồn lực vào năm lĩnh vực ưu tiên gồm: Bán dẫn, tự hành, tích trữ năng lượng, y sinh và vật liệu tiên tiến. Trong từng mảng, đơn vị vừa làm chủ công nghệ lõi, vừa triển khai hệ sinh thái nghiên cứu-đào tạo-thương mại hóa, hình thành các công ty spin-off như S-Phenikaa, Phenikaa-X để đưa kết quả nghiên cứu ra thị trường…
Để biến công nghệ chiến lược thành sức mạnh cạnh tranh thật sự, nhiều doanh nghiệp cho rằng cần định hướng dài hạn nhằm hình thành các sản phẩm này như một ngành công nghiệp, qua đó nâng cao sức cạnh tranh quốc gia.
Theo đó, việc mở rộng phạm vi chi của Quỹ Đầu tư công nghệ và công nghiệp chiến lược không chỉ dừng ở hỗ trợ hoạt động nghiên cứu và phát triển hay khởi nghiệp, mà cần bao gồm cả chi phí cải tiến sản phẩm, hoàn thiện tính năng, chất lượng và giá thành. Đây là yếu tố quyết định để sản phẩm chiến lược vượt qua giai đoạn khởi tạo, đủ năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Nhà nước cần sớm ban hành bộ tiêu chí đánh giá tỷ lệ nội địa hóa theo hướng coi trọng giá trị nghiên cứu và thiết kế sản phẩm, thay vì chỉ tính toán dựa trên nguyên vật liệu hay linh kiện. Cách tiếp cận này sẽ giúp doanh nghiệp công nghệ trong nước làm chủ các khâu then chốt, tạo nền tảng vững chắc trước khi mở rộng sản xuất và xuất khẩu.
Cần áp dụng cơ chế nhà nước đầu tư, doanh nghiệp vận hành các phòng thí nghiệm, cơ sở đo lường, thử nghiệm trọng điểm để đánh giá các sản phẩm công nghệ chiến lược.
Một kiến nghị quan trọng khác là hình thành các khu công nghiệp chuyên biệt cho công nghệ chiến lược như bán dẫn, hàng không, không gian…, để có thể tập trung nguồn lực nghiên cứu, phát triển và sản xuất theo chuỗi khép kín.
Theo Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Hoàng Minh, ngân sách nhà nước sẽ đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên phân bổ khoảng 40-50% để thực hiện các nhiệm vụ làm chủ công nghệ chiến lược.
Nhà nước có chính sách đầu tư xây dựng phòng thí nghiệm trọng điểm, phòng thí nghiệm dùng chung, hạ tầng kỹ thuật hiện đại nhằm phục vụ phát triển công nghệ chiến lược.
Hiện, Bộ Khoa học và Công nghệ đang hoàn thiện chương trình quốc gia phát triển công nghệ và công nghiệp chiến lược.
Các chuyên gia công nghệ nhấn mạnh, việc triển khai sản phẩm công nghệ chiến lược cũng cần có lộ trình cụ thể trong bối cảnh nguồn lực vẫn hạn chế. Điều cần thiết lúc này là đặt mục tiêu hợp lý, theo từng giai đoạn, để vừa khẳng định năng lực làm chủ, vừa tránh những hệ lụy cho chiến lược dài hạn của công nghệ Việt Nam.
Các chính sách, chương trình và dự án bước đầu đã hình thành, nhưng vấn đề cốt lõi nằm ở nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây chính là “điểm nghẽn” lớn nhất, cũng là chìa khóa quyết định việc rút ngắn khoảng cách công nghệ của Việt Nam so với thế giới.
(Còn nữa)
Nguồn: https://nhandan.vn/lam-chu-cac-cong-nghe-chien-luoc-nhung-buoc-khoi-dau-post909423.html
Bình luận (0)