Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Mạch nguồn giếng cổ-Bài 1: Giếng cổ trong đời sống văn hóa làng xã

(QBĐT) - Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, từ những người Chăm đầu tiên đến các thế hệ người Việt đứng chân trên mảnh đất Quảng Bình đã không ngừng chung lưng đấu cật vật lộn với môi trường thiên nhiên khắc nghiệt, không ngừng sáng tạo và liên tục kế thừa những thành tựu văn hóa của nhau trong lĩnh vực khai thác nguồn nước, trong đó nổi bật lên là thành tựu cực kỳ quan trọng của người Chăm Pa. Di sản của sự sáng tạo và kế thừa này đã sản sinh ra một hệ thống giếng cổ với nhiều loại hình, quy mô, kỹ thuật giống và khác nhau cùng tồn tại trong các làng xã của Quảng Bình cho đến ngày nay.

Báo Quảng BìnhBáo Quảng Bình13/06/2025

 
Về miền giếng cổ
 
Do nhiều tác động của khí hậu thời tiết, của điều kiện tự nhiên, xã hội và nhất là các cuộc chiến tranh, Đại Việt-Chiêm Thành, Trịnh-Nguyễn rồi chống Pháp, chống Mỹ, mảnh đất Quảng Bình chịu bao khói lửa đạn bom, cùng chịu chung số phận của các công trình trên mặt đất thì hệ thống giếng cổ ở đây đa phần đều không nguyên vẹn như những gì vốn có của nó.
 
Mặt khác, hệ thống giếng cổ là những công trình mang tính dân dụng, thực tiễn và luôn gắn bó với đời sống sinh hoạt của cộng đồng dân cư nên để phù hợp với hoàn cảnh kinh tế, xã hội, nhằm đáp ứng cao nhất nhu cầu con người, một số giếng được cải tạo, được tu bổ, tôn tạo từng phần làm cho chúng có sự thay đổi về vật liệu, về quy mô, về cấu trúc, diện mạo, một số giếng khác do không còn sử dụng nên đã bị hoang phế.
 
Mặc dù vậy, hiện nay trên địa bàn tỉnh vẫn còn một số lượng lớn các công trình giếng cổ giữ được nguyên trạng và đang được phát huy tốt trong đời sống kinh tế, văn hóa, du lịch và tâm linh của cộng đồng dân cư.
 
Hơn 100 giếng cổ đang tồn tại và phát huy giá trị trong các làng xã ở Quảng Bình mang đầy đủ các đặc trưng tiêu biểu đa dạng phong phú về kiến trúc, kỹ thuật xây dựng các loại hình giếng là minh chứng về một loại hình di sản quý. Bốn giếng Chăm ở Pháp Kệ, xã Quảng Phương (Quảng Trạch) cũng như các giếng Chăm khác ở Quảng Tùng, Quảng Phú (Quảng Trạch), Thanh Trạch (Bố Trạch), Mai Thủy (Lệ Thủy)... là những di sản còn lại của người Chăm trên đất Quảng Bình được người Việt kế thừa, trùng tu, tôn tạo qua vài lần.
 
Theo cố giáo sư Trần Quốc Vượng thì người Chăm rất có kinh nghiệm trong việc tìm nguồn nước để đào giếng phục vụ sinh hoạt và sản xuất
Giếng Sanh, xã Quảng Châu, huyện Quảng Trạch.
Giếng Sanh, xã Quảng Châu (Quảng Trạch).
Hệ thống giếng cổ là các công trình khai thác nước của người Chăm hoặc của người Việt theo kỹ thuật Chăm ở Quảng Bình rất phong phú và đa dạng tùy theo điều kiện địa hình, địa mạo và sinh thái.
 
Đó là, giếng cổ nếu phân bố ở vùng ven biển, đất cát thì đa phần là đáy giếng xếp gỗ lim, hay gỗ trai, tiếp theo là xếp đá, có thể là đá hộc hay đá liếp, tiếp theo là xây gạch. Các giếng này chủ yếu phân bố ở các làng xã ven biển của huyện Quảng Trạch, Bố Trạch, như:  Di Luân, Xuân Kiều, Thanh Khê, Lý Hòa...
 
Một số giếng khác phân bố vùng đồi, trung du, ven sông cũng xếp gỗ dưới đáy giếng, tiếp theo là xây đá tổ ong và xây gạch nên nước rất trong. Cũng có một số giếng độc đáo hơn là lòng giếng không xây gạch nằm mà xếp gạch đứng nên lòng giếng rất vững chắc, khó sụt lở như các giếng ở vùng cát ven biển.
 
Các giếng cổ đều phân bố trong khu dân cư hoặc gần khu dân cư và đều có cảnh quan thiên nhiên đẹp, có cây đa bến nước, sân đình, cây đề, cây cừa, cây dừa... tỏa bóng mát, cạnh trục đường giao thông, đầu làng hoặc trung tâm làng , nơi tụ hội của dân làng mỗi khi đêm về trăng lên, nơi gặp gỡ của bao người mỗi khi đi lấy nước...
 
Từ địa hình đất đai và lèn núi mà người dân đã làm giếng cho phù hợp, ngoài loại giếng đào do thăm dò phát hiện mạch nước ngầm (cả người Chăm và Việt), thì loại giếng do mạch ngầm tự phun cũng được người dân sử dụng như giếng Vọt ở Tiến Hóa (Tuyên Hóa), giếng con Cá ở Võ Ninh (Quảng Ninh), giếng Rục Ba Nương, giếng Bòi thôn Cầu Lợi xã Xuân Hóa (Minh Hóa), giếng Bôộng ở làng Xuân Lai, xã Mai Thủy (Lệ Thủy), giếng Bún, xã Quảng Châu (Quảng Trạch)... vật liệu mà kiến trúc cũng rất đa dạng và phong phú từ quy định của đất đai thổ nhưỡng từng địa phương.
 
Khác với giếng cổ các khu vực ở miền Bắc và miền Nam, giếng cổ ở Quảng Bình chủ yếu có các dạng hình cấu trúc cơ bản, đó là giếng vuông, giếng có phần dưới vuông, trên tròn, giếng tròn từ đáy lên, cũng có loại thành giếng vuông nhưng lòng giếng lại tròn. Tùy theo quy định của vùng đất, nguồn nước mà giếng cổ có thể là giếng ao, chứa nước trời như giếng Ván, giếng Hồ ở Hiển Lộc (Duy Ninh, Quảng Ninh), đường kính lên đến 12 và 15m, tường thành giếng xây bằng đất. Đa phần là giếng có mạch phun, những giếng này của người Chăm để lại và người Việt tiếp tục tu bổ tôn tạo sử dụng.
 
Kiến trúc của giếng cổ mang ý nghĩa văn hóa và tín ngưỡng đặc biệt, hình dạng của giếng phong phú, khi thì tròn từ đáy lên, khi thì vuông phần dưới, phần trên thì tròn, khi thì phần dưới tròn phần trên thì vuông, khi thì vuông từ đáy lên...
 
Cấu trúc bao gồm thành giếng, lòng giếng và đáy giếng. Đáy có khi có xếp gỗ, có khi không có; lòng giếng là phần chứa nước, thường được xây dựng bằng đá hay gạch; thành giếng khi thì xây bằng đá, khi thì lại xây bằng gạch, thậm chí bằng đất, kiểu thành đắp đất đa số là giếng ao, chứa nước trời.
 
Giếng cổ trên đất Quảng Bình ra đời và tồn tại cả nghìn năm. Trước đây, giếng cổ là nguồn nước chính của cả cộng đồng và cả du khách bốn phương, ví như giếng cổ ở Quảng Phú, Cảnh Dương (Quảng Trạch), tàu buôn nước ngoài thường ghé lấy nước ngọt trên chặng đường dài trên biển.
 
Giếng cổ gắn chặt với đời sống văn hóa 
 
Giếng cổ ở Quảng Bình cũng như giếng cổ của người Việt nói chung, giếng là trái tim, là con mắt, là linh hồn của làng xóm. Họ tin rằng, giếng cũng có tâm hồn, có thần, vì vậy giếng cổ nào cũng có ban thờ, hay miếu thờ trang nghiêm bên cạnh. Bốn miếu Chăm ở Pháp Kệ, xã Quảng Phương đều có miếu và ban thờ. Hàng năm, làng tổ chức vét giếng hai lần (lần thứ nhất vào tháng 5 âm lịch chuẩn bị cho lễ kỳ phúc và lần thứ hai và tháng chạp để lấy nước sạch cúng Tết). Khi vét giếng, thấy bốn mặt chảy đều là tốt, còn nếu hướng nào chảy ít thì các bậc trưởng lão tổ chức một lễ cúng để xin được thông mạch. Mạch khí hanh thông thì con cháu may mắn.
 
Bên cạnh giếng cổ có đàn cô hồn thường gọi là Cô Đàn của xóm. Vì vậy, hành năm cứ vào ngày 14 tháng giêng âm lịch người dân các xóm đều tiến hành việc tảo mộ cho các mồ vô chủ và làm mâm cổ đưa về Cô Đàn để cúng tế cho những cô hồn không có người thờ cúng. Đây là mỹ tục đáng quý của cư dân nơi đây gắn liền với giếng cổ.
 
Thậm chí như giếng Đông ở Bắc Hà, xã Quảng Tùng (Quảng Trạch) có hẳn một nhà miếu che giếng cổ, ban thờ quy mô, có nắp đậy giếng, xung quanh giếng cảnh quan, môi trường sạch sẽ. Nước giếng một số làng dùng pha trà cúng hay để thay nước trên ban thờ tổ tiên như giếng Sanh, giếng Quan ở Thổ Ngọa, Quảng Thuận (TX. Ba Đồn)...
 
Giếng cổ ngoài cung cấp nước ngọt phục vụ đời sống và sản xuất nông nghiệp còn mang ý nghĩa văn hóa và tín ngưỡng đặc biệt trong cộng đồng dân cư vùng miền qua bao thế hệ, được coi là biểu tượng của sự sống, sự thịnh vượng và linh thiêng.
Tạ Đình Hà
 
 >>> Bài 2: Bảo tồn và phát huy giá trị giếng cổ

Nguồn: https://baoquangbinh.vn/van-hoa/202506/mach-nguon-gieng-co-bai-1-gieng-co-trong-doi-song-van-hoa-lang-xa-2226994/


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chuyên mục

Bản làng ẩn mình trong thung lũng ở Thanh Hóa hút du khách tới trải nghiệm
 Thành phố Hồ Chí Minh ẩm thực kể chuyện phố phường
Việt Nam - Ba Lan vẽ nên 'bản giao hưởng ánh sáng' trên bầu trời Đà Nẵng
Cây cầu gỗ ven biển Thanh Hoá gây sốt nhờ góc ngắm hoàng hôn đẹp như ở Phú Quốc

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm