Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Mối thâm tình Chăm và Chu Ru

Những chứng tích, sử liệu, văn nghệ dân gian đã cho thấy sự hiện hữu của người Chăm ở Tây Nguyên. Trong đó, mối quan hệ giữa dân tộc Chăm và dân tộc Chu Ru từ trong lịch sử đã hết sức thâm tình.

Báo Đắk LắkBáo Đắk Lắk29/10/2025

Cùng các nguồn sử liệu, chúng tôi đã tiến hành nhiều cuộc điền dã về với đồng bào Chu Ru để tiếp nhận sâu sắc hơn về mối dây liên hệ giữa người Chu Ru và người Chăm.

Người Chu Ru quần cư ở triền thấp nhất của miền Tây Nguyên và họ có một số phận lịch sử đặc biệt. Tộc người này đã trải qua những thăng trầm dâu bể, cũng giống những ngọn núi xứ sở nối dài về biển, hình như họ có cội rễ sâu xa đâu đó dưới đồng bằng. Ông Ya Loan, một người Chu Ru, lý giải: “Trong ngôn ngữ xưa, từ “churu” có nghĩa là “người xâm đất”. Tổ tiên chúng tôi có lẽ là người miền biển. Vào thời nào đó thuộc đế chế Chăm Pa, họ đã phải dứt áo khỏi bản quán, cố hương”. Có lẽ bởi gốc gác đó mà người Chu Ru bây giờ vẫn nói được tiếng Chăm, giỏi dẫn thủy nhập điền làm ruộng nước, giỏi đánh cá, biết tìm đất sét tốt nặn và nung gốm, biết đúc nhẫn bạc, biết mang hàng hóa đi buôn bán khắp nơi. Những nghề đó không phải là thế mạnh của nhiều tộc người bản địa Tây Nguyên.

Người Chu Ru có nhiều nét văn hóa tương đồng với người Chăm.

So với người Mạ, K’Ho, M’nông, Êđê… tụ cư lâu đời, người Chu Ru là thành viên mới của Tây Nguyên. Thời điểm gọi là “mới” ấy, theo giả thiết, cũng cách đây cỡ ba, bốn thế kỷ. Tôi lật tư liệu, nhân chủng học chứng minh, người Chu Ru và người Chăm đều thuộc chủng tộc Austronesia, cùng chung ngôn ngữ Malayo-Polynesia thuộc ngữ hệ Nam Đảo. Trang phục, nhạc cụ, truyện cổ, trường ca, dân ca, dân vũ Chăm và Chu Ru cũng thể hiện rõ mối quan hệ gần gũi, thân thiết giữa hai tộc người. Truyền thuyết của người Chu Ru cũng kể rằng, một thời binh lửa can qua, các vị vua Chăm và gia tộc từng bị truy đuổi. Trên bước đường lưu lạc, họ đã chọn miền đất của người Chu Ru để gửi thân nương náu, để ủy thác thờ cúng và trông coi bảo vật tổ tiên. Phải chăng, bởi tình thân cội rễ nên có sự tin cậy trao gửi?

Trong một bài viết, nhà biên khảo Nguyễn Vĩnh Nguyên phân tích: “Con đường nối cao nguyên Lang Bian với thung lũng sông Cái - thuộc Ninh Thuận (cũ) nay thuộc tỉnh Khánh Hòa - trước kia là một lộ trình heo hút vượt qua những dốc núi dựng đứng, rừng thiêng nước độc. Nhưng với người Chăm ở vùng duyên hải Phan Rang, Phan Rí thì đó là mật đạo quyết định sự sinh tử của cộng đồng khi sắc dân này bị những thế lực xâm nhập dồn vào thế cùng. Người Chăm gọi Dran (Lâm Đồng) là Padrang. Vào thế kỷ 19, vùng Dran chính là cứ điểm khi người Chăm ở Phan Rí, Phan Rang lui về đây trú ẩn và gầy dựng lại lực lượng mỗi khi bị nhà Nguyễn dồn vào thế cùng. Điều này lý giải vì sao tộc người Chu Ru ở vùng Dran xưa lại thấm sâu văn hóa Chăm, từ kỹ nghệ làm gốm cho đến dệt thổ cẩm, tín ngưỡng và ngôn ngữ…”. Ngược lại, trong dân gian Chăm còn lưu truyền một bản Ariya (trường ca) kể về một thủ lĩnh Chăm là Damnưy Ppo Pan lên vùng Chu Ru ở vùng hạ nguồn sông Đa Nhim, thay vì nuôi chí phục quốc thì lại có đời sống phóng đãng với các cô gái Chu Ru, đức hạnh trượt dài, sự nghiệp trôi mất…

Có một điều thú vị, ông Ya Loan và ông Ya Ga ở vùng Đơn Dương đều kể về những cuộc “Nau drà” (đi chơi chợ) của người Chu Ru. Những chuyến đi của họ dài hằng tháng trời. Hướng họ tìm về là vùng duyên hải. Phải chăng, từ những chuyến về đồng bằng như thế, người Chu Ru thỏa nỗi nhớ biển từ trong tâm thức, cái nhớ cội nguồn mà ngày xưa tổ tiên họ rời bỏ để làm cánh chim thiên di mang theo số phận tộc người lên rừng núi xa xôi?

Sự ủy thác thiêng liêng về việc thờ cúng và bảo vệ những báu vật của tổ tiên người Chăm đối với người Chu Ru là một minh chứng hết sức rõ nét.

Các tài liệu cũ cho biết, trước đây ở Lâm Đồng chính thức có ba địa điểm chứa bảo vật của vương triều Chăm Pa mà cả ba nơi này đều là không gian sinh sống tập trung của đồng bào Chu Ru. Đó là buôn Lơbui (nay thuộc xã Đơn Dương); đền Krayo và đền Sópmadronhay nay thuộc xã Tà Năng. Có thể nói rằng, có một sự ủy thác lịch sử của người Chăm và người Chu Ru.

Các kho tàng chứa bảo vật Chăm ở Lâm Đồng đã nhiều lần được các nhà sử học người Pháp tới khảo sát trong những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Ví như, năm 1902, hai nhà khảo cứu H.Parmentier và I.M.E Durand đã đến thăm hai ngôi đền nói trên. Trước khi đến, họ đến Phan Rí nhờ một bà cựu công chúa Chăm dẫn đường thì người Chu Ru mới mở cửa đền. Năm 1905, qua bài khảo cứu “Letresor des Rois Chams” trong tập kỷ yếu “EC cole Francaise Détrêeme Orient”, tác giả Durand đã công bố về các kho tàng nói trên. Năm 1929 - 1930, nhà khảo cổ học tới thăm các kho tàng này và đã viết bài về các bảo vật lưu giữ tại đây và đăng trong kỷ yếu của Viện Viễn Đông bác cổ, tập 30. Năm 1955, nhà dân tộc học Jacques Dounes, trong cuốn “En sui vant la piste des hounes sur les hauts plateaux du Vietnam” cũng đã đề cập khá chi tiết về kho báu Chăm ở vùng Tuyên Đức (Lâm Đồng ngày nay).

Người Chu Ru cúng đền Karyo thờ vua và hoàng hậu Chăm Pa.

Cuộc khảo sát kỹ lưỡng nhất về kho tàng bảo vật Chăm Pa này thuộc về đoàn của giáo sư Nghiêm Thẩm vào tháng 12/1957. Trong chuyến khảo sát này, đoàn của ông Nghiêm Thẩm đã đến cả ba địa điểm: buôn Lơbui, đền Krayo và đền Sópmadronhay. Theo mô tả của ông Nghiêm Thẩm vào thời điểm đó thì ở Lơbui có ba điểm cất giữ các báu vật Chăm: nơi chứa các đồ vật quý, nơi để đồ sứ và nơi để y phục. Bảo vật ở đây cũng không có nhiều. Đựng trong một giỏ tre có 4 cái chén bằng bạc, mấy chiếc chén nhỏ bằng đồng và ngà voi. Ngoài ra, còn có 2 cái vành mũ của vua, một cái bằng bạc và một cái bằng vàng pha đồng. Các đồ sứ như bát, đĩa được đặt trong một cái hố đào sẵn ở trong một căn nhà riêng biệt. Chủ yếu ở đây là những chén bát sứ thông dụng của người Chăm. Còn y phục thì phần nhiều đã bị mục nát. Đồng bào Chu Ru ở buôn Lơbui cho biết, hằng năm đến tháng 7, tháng 9 theo lịch của người Chăm (tức là tháng 9 và tháng 11 dương lịch), những đại diện người Chăm từ biển lên làm lễ cúng tại những nơi chứa đồ vàng bạc, y phục và đồ sứ ở buôn này.

Tại đền Sópmadronhay, từ những thông tin trên các con dấu và ấn tín tìm thấy cùng với tra cứu sử liệu, phái đoàn của ông Nghiêm Thẩm cho rằng, những con dấu và ấn tín trên đây là của một phiên vương Chăm tên là Môn Lai Phu Tử. Lý giải này bám theo lịch sử nhà Nguyễn, trong “Đại Nam thực lục chính biên” và “Đại Nam chính biên liệt truyện” có chép: Năm Canh Tuất 1790, con vua Chăm ở trấn Thuận Thành là Môn Lai Phu Tử đem liên thuộc và dân chúng theo vua Gia Long đánh quân Tây Sơn. Sau được phong chức Chưởng cơ và được lấy tên Việt là Nguyễn Văn Chiêu. Nhưng ít lâu sau đó, Chiêu phạm tội và bị cách chức. Có lẽ, sau đó Môn Lai Phu Tử đã mang theo những người thân thuộc lên miền núi lánh nạn và sống với đồng bào Chu Ru. Vì vậy, mới thấy các ấn tín, triều phục và đồ dùng bằng vàng, bạc của phiên vương này tại đền Sópmadronhay thuộc đất buôn Sóp của người Chu Ru.

Suốt hàng trăm năm qua, đồng bào Chu Ru vẫn trọn mối thâm tình, vẫn giữ lời gửi gắm của đồng bào Chăm, vẫn không lãng quên trách nhiệm thờ cúng hoàng thất Chăm Pa…


Nguồn: https://baodaklak.vn/phong-su-ky-su/202510/moi-tham-tinh-cham-va-chu-ru-9350896/


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Cao nguyên đá Đồng Văn - 'bảo tàng địa chất sống' hiếm có trên thế giới
Ngắm phố biển của Việt Nam lọt top điểm đến hàng đầu thế giới năm 2026
Ngắm nhìn 'Vịnh Hạ Long trên cạn' vừa lọt top điểm đến yêu thích nhất thế giới
Cảnh hoa súng 'nhuộm hồng' Ninh Bình nhìn từ trên cao

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

Các toà nhà cao tầng ở TP.HCM chìm trong sương mù

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm