Biển lặng đi, chỉ còn một bóng người câm cặm cụi dọn lại bãi cát, nhặt từng mảnh rác bị sóng đánh dạt vào bờ. Anh tên Than - đen, gầy, mà hiền như nước sau bão.
Không ai biết cha mẹ ruột của Than là ai. Người ta chỉ nhớ mang máng, hồi đó có một người đàn bà xinh xắn bồng đứa nhỏ ra bến cá rồi lặng lẽ bỏ đi. Đêm đó, trời nổi giông. Vợ chồng ông bà Sáu - dân chài quanh năm lênh đênh trên sóng, thấy đứa nhỏ nằm co ro bên đống lưới, thương quá bèn đem về nuôi. Gia đình ông Sáu sống trong căn nhà chật chội mà vẫn san sẻ bát cơm cho một đứa trẻ không cùng máu mủ.
Khi ông Sáu bế cậu bé ra khỏi đống lưới, thì thấy mảnh giấy ghi cháu tên Than, ngày tháng năm sinh... Than bị câm từ nhỏ, chỉ nghe, không nói. Mỗi lần ai gọi tên, nó chỉ cười hiền, ánh mắt long lanh như con nước buổi sớm.
Những năm đầu, cuộc sống của gia đình ông Sáu quanh quẩn bên ghe lưới và biển trời. Sáng ra khơi, chiều về bữa cơm chỉ có cơm trắng với cá ồ, cá trích nướng chấm mắm nêm là xong. Vậy mà vui. Than ngồi giữa đám em, tay gắp cá cho tụi nhỏ, miệng mím lại mà cười, niềm vui lấp lánh trong đôi mắt câm.
Năm Than 20 tuổi, một trận bão lớn đổ vô. Biển Phú Đông ngày ấy nổi sóng dữ dội, nhà cửa tốc mái, ghe thuyền trôi tuốt tuột ra xa. Ông bà Sáu ra khơi từ sớm, nói "kéo thêm mẻ cá rồi về", nhưng chiều tối gió quần mịt mùng, chẳng ai thấy ghe họ nữa. Sáng ra, người ta chỉ nhặt được mảnh ván có khắc chữ "Sáu Hạnh".
Căn nhà tôn mới dựng chưa ráo, Than ngồi bó gối ngoài hiên, nhìn biển xa lắc, mắt ráo hoảnh mà tim rát bỏng. Đêm ấy, người làng nghe tiếng gió rít qua mái tôn, như tiếng khóc bị gió nuốt mất. Không ai nghe được tiếng khóc của người câm, nhưng sáng hôm sau, cát trước cửa nhà anh ướt đẫm.
Lao ra bờ biển, anh vẽ một trái tim trên cát. Rồi sóng lại cuốn trôi. Anh tiếp tục vẽ cho đến khi anh đã nghe mấy chục lần sóng vào bờ. Anh cứ tiến dần ra biển, sóng đập vào mặt rát buốt. Vẫn không thấy thuyền ba má đâu.
Sau khi cha mẹ nuôi mất, mấy đứa con ông bà Sáu được chia về bên nội ngoại nuôi, chỉ có Than lủi thủi một mình. Anh ở lại căn nhà tôn cũ, làm thuê đủ việc quanh bãi biển để sống. Quán nhậu cần người rửa bát, anh tới. Ghe cần kéo lưới, anh theo. Những lúc rảnh rỗi, không ai thuê làm gì thì anh vác trên vai bao tải dạo quanh bờ biển, một chốc bãi biển nhẵn mịn như tấm thủy tinh. Đặc biệt, mùa nào biển động, anh ở cả ngày bên bãi biển.
MINH HỌA: AI
Nhiều lúc, anh lúi húi nhặt mấy hộp nhựa nước mía của lũ trẻ tuổi loi nhoi, chúng uống xong vứt một cái xẹt cùng mấy hộp giấy đựng khoai tây chiên, xúc xích chiên. Chúng hò nhau:
- Đi thôi tụi bay ơi, cứ bỏ thí đó.
Rồi chúng đi ào ào trên cát, lớp bụi bay tứ tung, để lại phía sau bóng dáng người thanh niên với bao tải rác nặng trĩu trên vai.
***
Có lần đoàn thanh niên của khu phố lập dự án đổ bê tông xuống vùng nước xoáy, cho nước cạn bớt, trẻ con và người già tắm không bị nguy hiểm. Ai cũng bảo "khổ như thế, ai làm chi cho cực", chỉ có Than là hăng hái. Anh khiêng bao xi măng, xúc cát, trộn đá, lội tuốt ra mép nước, dầm mình cả ngày. Không ai trả công, anh vẫn làm, chỉ thỉnh thoảng cười, đưa tay ra hiệu "biển sạch - đẹp lắm".
- Anh Than lặng thinh nhưng làm giỏi thật!
Giọng cậu thanh niên trong nhóm oang oang vang lên, nhưng anh chỉ cười tủm tỉm.
Sau khi xong dự án đổ bê tông chắn sóng, các anh em trong khu phố rủ nhau chụp tấm hình để đăng lên Facebook, nhưng cả bọn nhìn qua tìm không thấy Than đâu. Anh thường lặng lẽ như vậy.
Người làng thương, ai có cơm cá cũng đem cho. Anh ăn ít, thường chừa phần cho mấy con chó hoang quanh bãi. Mấy đứa nhỏ chạy ra biển, thấy anh là reo:
- Chú Than, để tụi con nhặt phụ nghen!
Anh chỉ cười, xoa đầu, rồi ra hiệu nhặt kỹ, đừng để sót.
Nhờ anh, bãi biển dần sạch tinh, cát trắng phau, cá nhỏ lại về nhiều. Mấy người bán hàng rong khen: "Không có chú Than, biển mình chắc dơ dữ lắm".
Một sáng sau trận bão lớn, Than phát hiện một túi nilon bị cát vùi nửa chừng. Trong túi có một cái chuông nhỏ ánh đồng, trên khắc dòng chữ mờ:
"Tặng con trai của mẹ".
Cạnh đó là một tờ giấy nhòe nát, chỉ còn đọc được mấy chữ đầu có tên người mẹ, còn lại bị nước xóa hết. Anh run run cầm cái chuông, áp lên ngực. Tiếng chuông khẽ vang, ngân dài trong gió biển. Anh treo nó lên cành bàng biển trước nhà. Từ đó, mỗi khi gió nổi, cái chuông lại reo leng keng, nghe như tiếng ai gọi đâu xa lắc.
Rồi một buổi sáng, người ta không thấy Than nữa. Trên bãi cát chỉ còn đôi dép cũ nằm ngay vệt sóng mới rút. Có người bảo anh bị cuốn đi khi ra dọn rác sau bão, có người nói anh theo đoàn công nhân đi chặt mía ở vùng Sông Hinh. Nhưng bãi biển vẫn sạch tinh như mới, rác không bao giờ chất đống lại. Người ta nói nhỏ với nhau: "Chắc chú Than còn quanh quẩn đâu đây, dọn biển hoài hông chịu nghỉ".
Từ ngày chú Than mất tích, người làng thôi không vứt rác xuống biển nữa. Mấy đứa nhỏ sáng nào cũng cầm bao đi nhặt rác, vừa làm vừa thì thầm: "Để chú Than khỏi buồn, nghe!".
Mấy tháng sau, có đoàn khách từ xa vô tắm biển. Trong đoàn, có một người đàn bà tóc đã bạc, tay cầm theo một cái chuông nhỏ ánh đồng. Bà đứng thật lâu bên mép sóng, nhìn xa về phía chân trời, chỗ nước và trời nhập làm một.
Bà hỏi nhỏ, giọng run run:
- Ở đây... có ai tên Than không, một người câm, gầy, nghe nói hay dọn rác ở bãi biển ni?
Người làng nhìn nhau, rồi có người chỉ về phía gốc bàng, nơi lá vàng rụng đầy cát:
- Có chớ... mà đi xa rồi, lâu lắm rồi. Hồi bão năm ngoái, ảnh ra biển dọn rác, rồi hổng thấy về nữa.
Người đàn bà siết chặt cái chuông trong tay, môi bặm lại, mắt ươn ướt:
- Hồi lúc tôi vừa sinh cháu... tui đặt tên là Than, vì da nó đen như hòn than, mà ấm lắm... Tui... lỡ đã bỏ nó ở bến cá đây...
Gió từ biển thổi vô làm cái chuông trong tay bà reo lên những tiếng nhỏ xíu, nghe như tiếng gọi đâu xa lắc. Sóng cũng khe khẽ vỗ vào bờ, như đáp lại.
Người làng im lặng, ai nấy cúi đầu. Cát bay nhẹ, phủ lên dấu chân bà, phủ lên bãi biển nơi anh Than từng ngày dọn sạch rác cho người ta.
Từ đó, mỗi buổi sáng, người ta lại thấy một chiếc chuông nhỏ treo trên cành bàng, kêu leng keng mỗi khi gió thổi. Còn bờ biển Phú Đông - sau bao mùa bão gió - vẫn trong sạch, như có ai đó âm thầm dọn dẹp hoài, không chịu nghỉ. Sóng vẫn đi và về, cát vẫn mịn dưới chân người qua lại. Chỉ có lòng nhân ái là ở lại, như hạt muối trong biển, tan ra nhưng chẳng bao giờ mất.
Nguồn: https://thanhnien.vn/nguoi-giu-bien-truyen-ngan-du-thi-cua-nguyen-thi-ngoc-diem-185251026221908273.htm






Bình luận (0)