Theo kế hoạch, Bắc Ninh đặt mục tiêu phát triển mạnh mẽ thị trường KH&CN, nâng cao năng lực giao dịch và giá trị hàng hóa công nghệ, hướng tới nền kinh tế có tính cạnh tranh cao. Các chỉ tiêu cụ thể cho thấy cách tiếp cận thực chất và định lượng: Giá trị giao dịch hàng hóa KH&CN tăng bình quân 30% mỗi năm; tỷ trọng giao dịch tài sản trí tuệ chiếm trên 20%; công nghệ nhập khẩu đạt 35% và công nghệ từ viện, trường chiếm trên 40% trong tổng giao dịch trong nước.
Cùng với đó, tỉnh sẽ thành lập Sàn giao dịch công nghệ và thiết bị Bắc Ninh, phát triển ít nhất một tổ chức trung gian KH&CN, số hóa kết quả nghiên cứu có khả năng thương mại hóa và phấn đấu đạt 80 doanh nghiệp KH&CN hoạt động hiệu quả. Đây là cách tỉnh “vật chất hóa” thị trường tri thức, biến các sản phẩm nghiên cứu, sáng chế, giải pháp kỹ thuật trở thành hàng hóa có thể định giá, trao đổi và sinh lợi.
Điểm đáng chú ý của kế hoạch là sự chuyển biến trong tư duy quản lý. Trước đây, KH&CN được xem chủ yếu như lĩnh vực nghiên cứu, còn thị trường chỉ đóng vai trò thứ yếu. Nay, Bắc Ninh xác định phải phát triển đồng thời ba trụ cột: nguồn cung – nguồn cầu – và tổ chức trung gian. Điều đó có nghĩa là, không chỉ thúc đẩy nghiên cứu hay ứng dụng, mà phải tạo ra không gian cho tri thức lưu thông, gắn kết giữa viện nghiên cứu, doanh nghiệp và nhà nước trong một hệ thống vận hành thống nhất. Thị trường KH&CN được nhìn nhận như một “hạ tầng mềm” – yếu tố không nhìn thấy nhưng quyết định năng suất, chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của địa phương.
Từ thể chế đến hành động – hướng tới hệ sinh thái thị trường KH&CN hoàn chỉnh
Với cách tiếp cận đó, Bắc Ninh xây dựng hệ thống giải pháp có tính đồng bộ và liên thông. Trước hết là hoàn thiện môi trường pháp lý. Tỉnh rà soát và ban hành các chính sách mới nhằm tạo hành lang thuận lợi cho giao dịch công nghệ, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đổi mới và ứng dụng công nghệ mới. Đặc biệt, cơ chế liên thông giữa thị trường KH&CN với các thị trường hàng hóa, dịch vụ, tài chính, lao động được nhấn mạnh bởi chỉ khi có sự gắn kết, KH&CN mới thực sự trở thành yếu tố cấu thành của nền kinh tế. Bắc Ninh cũng chú trọng thiết lập mô hình hợp tác “ba nhà”: doanh nghiệp – viện – trường, coi đây là phương thức hữu hiệu để chuyển tri thức thành sản phẩm, sản phẩm thành thị trường, và thị trường thành động lực phát triển.
Ở góc độ cầu công nghệ, doanh nghiệp được đặt ở vị trí trung tâm. Tỉnh sẽ tiến hành đánh giá năng lực công nghệ trong các ngành chủ lực, nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo, để xác định khoảng trống công nghệ và nhu cầu đổi mới. Doanh nghiệp được khuyến khích thành lập tổ chức KH&CN nội bộ, xây dựng trung tâm nghiên cứu, đầu tư cho R&D và chủ động hợp tác với viện, trường để đặt hàng nghiên cứu. Đây là mô hình thị trường định hướng cầu, nơi doanh nghiệp không chỉ là người mua công nghệ, mà còn là người định hình công nghệ. Trong khi đó, ở phía cung, Bắc Ninh tập trung hỗ trợ thương mại hóa kết quả nghiên cứu, khuyến khích nhập khẩu và giải mã công nghệ tiên tiến, công nghệ xanh, công nghệ sạch, đặc biệt phục vụ các lĩnh vực có lợi thế như công nghiệp phụ trợ, nông nghiệp công nghệ cao, sản phẩm OCOP và các sản phẩm chủ lực của tỉnh.
Để thị trường vận hành thông suốt, hệ thống trung gian được xem như mắt xích trọng yếu. Việc thành lập Sàn giao dịch công nghệ và thiết bị Bắc Ninh là bước đột phá quan trọng. Không chỉ là nơi trưng bày, giới thiệu sản phẩm, sàn còn đóng vai trò nền tảng giao dịch điện tử, tích hợp dữ liệu cung – cầu, kết nối doanh nghiệp với các viện, trường và chuyên gia công nghệ. Cùng với đó, Bắc Ninh định hướng phát triển trung tâm hỗ trợ đổi mới sáng tạo, cơ sở ươm tạo công nghệ, doanh nghiệp KH&CN, khuyến khích khu vực tư nhân tham gia vào các dịch vụ môi giới, định giá, tư vấn chuyển giao công nghệ. Đây là sự chuyển biến từ “hệ thống nhà nước hỗ trợ” sang “hệ sinh thái đa chủ thể”, trong đó nhà nước tạo nền tảng, doanh nghiệp và xã hội vận hành.
Không thể thiếu trong cấu trúc đó là yếu tố con người và hạ tầng số. Bắc Ninh đặt mục tiêu nâng cao năng lực đội ngũ quản lý và nhân lực KH&CN thông qua đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về định giá công nghệ, sở hữu trí tuệ, thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Bên cạnh đó, tỉnh đầu tư phát triển cơ sở dữ liệu KH&CN, kết nối với Cổng thông tin quốc gia, ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo và phân tích dữ liệu lớn trong quản lý giao dịch, định giá và dự báo xu hướng công nghệ. Việc xây dựng Sàn giao dịch công nghệ điện tử không chỉ nhằm hiện đại hóa hoạt động xúc tiến, mà còn hướng tới mô hình thị trường KH&CN 4.0 – nơi giao dịch tri thức được số hóa, minh bạch và mở rộng không giới hạn về không gian.
Có thể thấy, điểm mạnh của kế hoạch Bắc Ninh nằm ở chỗ không dừng ở việc “phát triển KH&CN”, mà đặt trọng tâm vào phát triển thị trường KH&CN – tức là phát triển cơ chế để tri thức lưu thông, tài sản trí tuệ được định giá, công nghệ trở thành hàng hóa. Đây là tư duy chính sách tiên tiến, gắn với mô hình tăng trưởng dựa vào đổi mới sáng tạo. Khi thị trường KH&CN vận hành hiệu quả, nghiên cứu không còn “nằm trên giấy”, doanh nghiệp không còn bị động trong đổi mới, và nhà nước không còn phải làm thay.
Kế hoạch đến năm 2030 vì vậy mang ý nghĩa vượt ra ngoài phạm vi một địa phương: nó là thử nghiệm của mô hình “kinh tế tri thức cấp tỉnh”, trong đó Bắc Ninh đóng vai trò tiên phong. Nếu triển khai đồng bộ, Bắc Ninh hoàn toàn có thể trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo và giao dịch công nghệ của vùng Bắc Bộ – một “phòng thí nghiệm chính sách” cho việc vận hành thị trường KH&CN ở cấp địa phương.
Trong kỷ nguyên số, khi tri thức trở thành nguồn lực quan trọng nhất, việc một tỉnh công nghiệp như Bắc Ninh lựa chọn phát triển thị trường KH&CN không chỉ là chiến lược kinh tế, mà còn là lựa chọn mang tầm văn hóa phát triển – nơi tri thức được coi trọng, đổi mới được khuyến khích và công nghệ trở thành thước đo năng lực cạnh tranh của địa phương./.
Nguồn: https://mst.gov.vn/thi-truong-khcn-chia-khoa-mo-canh-cua-kinh-te-tri-thuc-bac-ninh-197251021181429386.htm
Bình luận (0)